Đối với kế hoạch phát hành riêng lẻ, BID cho biết đang trong quá trình chờ phê duyệt chủ trương tăng vốn từ NHNN và làm việc các nhà đầu tư tiềm năng để hoàn thành đợt phát hành đầu tiên (2.9% VĐL) trong Q1/2025. Giá trị của lần phát hành này không được tiết lộ. BID đang trình Bộ Tài chính phương án tăng vốn điều lệ từ LN giữ lại (phát hành cổ phiếu trả cổ tức với tỷ lệ 21%), dự kiến hoàn thành vào đầu 2025.
BID còn khoảng 12 nghìn tỷ đồng dư nợ tái cơ cấu theo TT 02, trong đó 9 nghìn tỷ đã được trích lập dự phòng đầy đủ, do đó, việc TT 02 không được gia hạn không có ảnh hưởng đáng kể tới chi phí dự phòng của ngân hàng trong năm sau.
VDSC (Rồng Việt) duy trì giá mục tiêu ở mức 54,700 đồng/cổ phiếu, tương ứng tỷ lệ sinh lời kỳ vọng là 18% tại ngày 27/11 và hàm ý định giá P/B 2025F tại giá mục tiêu là 2.2 lần.
VDSC điều chỉnh tăng 2% LNTT 2024F lên mức 30,400 tỷ đồng (+11% YoY).
Cho năm 2025, VDSC dự phóng LNTT tăng trưởng mức 15%, đạt gần 35 nghìn tỷ đồng. Tổng thu nhập (TOI) hoạt động tăng trưởng 14%, với đóng góp chủ yếu từ tăng trưởng 15% của thu nhập lãi thuần (giả định tăng trưởng tín dụng 13.6% và NIM đi ngang).
Từ nay tới cuối năm, BID sẽ sử dụng hết hạn mức tăng trưởng tín dụng (TTTD) được SBV phê duyệt là 14.04% (TTTD hiện khoảng 11%), và dự kiến không tăng lãi suất huy động từ nay tới cuối năm.
BID cũng nhận định rằng nợ xấu đã tạo đỉnh trong Q3 và kiểm soát tỷ lệ nợ xấu cuối năm dưới 1.4% (Q3-2024: 1.7%). Ngân hàng có mục tiêu tăng trưởng LNTT khoảng 10%, hàm ý LNTT Q4-2024 tăng trưởng khoảng 6% YoY lên mức khoảng 8,400 tỷ đồng.
LNTT 9T-2024 tăng trưởng 12% YoY được dẫn dắt bởi mức giảm 8% YoY của CP dự phòng trong khi Tổng thu nhập hoạt động tăng nhẹ 4%.
Trong khi tín dụng duy trì đà tăng ổn định (9T-2024 là 9.9%) với hồi phục mạnh mẽ của phân khúc bán lẻ, NIM (TTM) giảm khoảng 20 bps YoY xuống 2.46% do tác động của nhiều yếu tố như triển khai các gói vay ưu đãi lãi suất, giảm lãi suất hỗ trợ khách hàng bị thiệt hại bởi bão Yagi, và nợ xấu tăng.
Trong các động lực ngoài lãi khác, thu hồi nợ xấu đã xử lý là điểm sáng khi đạt 4,00 tỷ đồng trong 9T-2024 và tăng 35% YoY.
ACBS ước tính giá phát hành riêng lẻ của BID khoảng 48,000-59,000 đồng
Triển vọng Q4-2024: Nợ xấu đã tạo đỉnh; LNTT mục tiêu cả năm dự kiến tăng trưởng 10%
- BID sẽ sử dụng hết hạn mức tăng trưởng tín dụng được SBV phê duyệt là 14.04% (tăng trưởng tín dụng tính đến thời điểm gần nhất là khoảng 11%).
- Về triển vọng lãi suất toàn thị trường, BID nhận định rằng mặt bằng lãi suất huy động có thể tăng nhẹ khoảng 25bps về cuối năm do yếu tố mùa vụ để đáp nhu cầu tín dụng thường tăng nhanh vào dịp này. Tuy nhiên, BID dự kiến không tăng lãi suất huy động từ nay tới cuối năm.
- Về chất lượng tài sản, BID nhận định rằng nợ xấu đã tạo đỉnh trong Q3 và cam kết kiểm soát tỷ lệ nợ xấu cuối năm dưới 1.4%.
- LNTT cả năm đặt mục tiêu tăng trưởng khoảng 10%. Mục tiêu này hàm ý LNTT Q4-2024 tăng trưởng khoảng 6% YoY lên mức khoảng 8,400 tỷ đồng.
Triển vọng 2025: Cải thiện tốc độ tăng trưởng LNTT; Mong muốn hoàn thành vòng chào bán riêng lẻ đầu tiên trong Q1/2025
- BID tiếp tục chú trọng tín dụng bán lẻ, một mặt bám sát với định hướng chiến lược của ngân hàng, mặt khác BID cũng nhận định rằng nhu cầu tín dụng của phân khúc này đã và đang có sự hồi phục.
- Mặt bằng lãi suất có xu hướng tăng nhẹ (duy trì trong khoảng 5.25%-5.5% với kỳ hạn 12T), phù hợp với xu hướng phục hồi của tín dụng.
- NIM sẽ cải thiện so với năm 2024 nhờ nhu cầu tín dụng phục hồi, đặc biệt là tín dụng bán lẻ, và triển khai các kế hoạch gia tăng tỷ lệ CASA.
- Về tỷ giá, ngân hàng cho rằng tỷ giá USD/VND tăng khoảng 2-3%, không gặp áp lực lớn như năm 2024 (hiện tại 4,5%), khi FED tiếp tục cắt giảm lãi suất và dòng ngoại tệ từ FDI, xuất khẩu.
- BID đặt kế hoạch tăng trưởng LNTT năm 2025 không thấp hơn năm 2024 (ít nhất 10%).
- Đối với kế hoạch phát hành riêng lẻ, BID cho biết đang trong quá trình chờ phê duyệt chủ trương tăng vốn từ NHNN và làm việc các nhà đầu tư tiềm năng để hoàn thành đợt phát hành đầu tiên (2.9% VĐL) trong Q1/2025. Giá trị của lần phát hành này không được tiết lộ. Phần còn lại, tương ứng khoảng 6,1% vốn điều lệ, sẽ được thực hiện tùy thuộc vào điều kiện thị trường và tiếp tục tìm kiếm nhà đầu tư. Sau khi phát hành thành công, BID sẽ cải thiện hệ số CAR (hiện tại 9.2%) tuy nhiên có thể làm giảm ROE nếu như lợi nhuận không có mức tăng trưởng tương xứng.
- BID sẽ tăng VĐL qua chi trả cổ tức bằng cổ phiếu (tỷ lệ 21%) sau khi có phê duyệt của Bộ Tài chính, dự kiến hoàn thành vào đầu 2025.
Cập nhật dự phóng 2024F-25F
VDSC điều chỉnh LNTT 2024F tăng 2% so với dự phóng trước đó lên mức 30,400 tỷ đồng (+11% YoY) do điều chỉnh NIM cả năm giảm 2 bps xuống 2.39% sau diễn biến suy yếu của NIM trong Q3-2024 và điều chỉnh tăng trưởng tín dụng cả năm xuống mức 14.0%.
Tỷ lệ chi phí tín dụng cả năm giữ nguyên ở mức 1.0% giảm 20 bps so với năm 2023.
ROE 2024 dự phóng đạt 18.0% giảm so với mức 18.9% của năm 2023.
Cho năm 2025, VDSC dự phóng Tổng thu nhập hoạt động tăng trưởng 14%, với đóng góp chủ yếu từ tăng trưởng 15% của TN lãi thuần (giả dịnh tăng trưởng tín dụng 13.6% và NIM đi ngang).
Tỷ lệ CP tín dụng đi ngang ở mức 1.0% dù nợ xấu có thể giảm trong năm 2025 dựa trên quan điểm thận trọng của ngân hàng trong việc cải thiện lại bộ đệm dự phòng, vốn đã suy giảm trong năm nay.
Mặc dù vậy, chi phí dự phòng sẽ tăng trưởng chậm hơn so với LN trước dự phòng, giúp LNTT tăng trưởng cao hơn trong năm 2025 ở mức 15%.
Chúng tôi cũng phản ánh vào dự phóng khả năng hoàn thành đợt phát hành riêng lẻ thứ nhất của BID trong năm sau với giá phát hành giả định bằng 2 lần giá trị sổ sách (BVPS) năm 2025, qua đó, ROE có thể giảm nhẹ về 17.2%.
Cập nhật KQKD 9T-2024: Lợi nhuận duy trì tăng trưởng hai chữ số nhờ chi phí tín dụng giảm
Tăng trưởng thu nhập lãi thuần đi ngang bất chấp tín dụng tăng trưởng khả quan do NIM đột ngột giảm mạnh do triển khai ưu đãi lãi suất hỗ trợ khách hàng, và nợ xấu gia tăng (khiến thu nhâp lãi giảm).
- Về tăng trưởng tín dụng, tín dụng bán lẻ bứt phá trong Q3-2024 với tăng trưởng cho vay KH cá nhân đạt +6.9% QoQ và 15.6% YTD (Q2-2024: 8.1%), tín dụng doanh nghiệp SME tăng 14.2% QoQ và 19.3% YTD (Q2-2024: 4.4%). Trái lại, tín dụng KH doanh nghiệp lớn ước giảm 7.2% QoQ và giảm 3.5% YTD. Diễn biến này bám sát định hướng chiến lược bán lẻ của BIDV.
- Cho vay KH cá nhân tăng trưởng nhanh do BID thúc dẩy cho vay tiêu dùng (tăng 16.1% QoQ và 30.8% YTD), chiếm 28% danh mục cho vay nhóm KH này. Mặt khác, cho vay sản xuất kinh doanh, chiếm 40% danh mục cho vay, và cho vay BĐS, chiếm 30% danh mục cho vay, tăng lần lượt 3.9% và 4.4% QoQ, đưa tăng trưởng từ đầu năm lần lượt đạt 12.6%, và 10,5%.
- Đối với cho vay DN lớn, tỷ trọng cho vay kinh doanh BĐS khá thấp từ 2%-3% tổng danh mục cho vay, tương ứng khoảng 40-60 nghìn tỷ đồng, còn cho vay DN nhà nước chiếm hơn 5% tổng danh mục, khoảng 100 nghìn tỷ đồng.
- Tăng trưởng huy động 9T-2024 là 9.1% (Q2-2024: 5,8%), cân bằng với tăng trưởng tín dụng và tích cực hơn diễn biến tăng trưởng huy động của hệ thống. Trong Q3, tiền gửi từ KBNN giảm gần 50 nghìn tỷ đồng, bù lại BID huy động 66 nghìn tỷ đồng từ tiền gửi KH. Tỷ lệ CASA giảm nhẹ 30 bps QoQ xuống 18.5%.
- Lợi suất tài sản bình quân duy trì xu hướng giảm 4 quý liên tiếp từ Q4-2023 do liên tục triển khai các chương trình ưu đãi lãi suất cho vay và hỗ trợ các KH chịu thiệt hại do bão Yagi (tung ra gói tín dụng 100 nghìn tỷ đồng với lãi suất cho vay giảm từ 0,5%-2%), bên cạnh việc nợ xấu tăng khiến BID bị giảm thu nhập lãi. Chi phí vốn tuy cũng bắt đầu giảm từ Q4-2023 nhưng đã tạo đáy trong Q2-2024 và tăng nhẹ 5 bps trở lại trong Q3-2024. Qua đó, NIM Q3-2024 giảm xuống 2,2%, đây là mức thấp nhất lịch sử.
Tổng các thu nhập ngoài lãi (TN hoạt động dịch vụ, kinh doanh ngoại hối, mua/bán trái phiếu, và TN khác) đạt 12,300 tỷ đồng, tăng 10% YoY. Mức tăng lũy kế 9T-2024 đã giảm tốc đáng kể so với nửa đầu năm, bởi
(1) TN từ hoạt động dịch vụ tăng trưởng âm 16% YoY trong Q3-2024, ảnh hưởng bởi quy định mới về UPAS L/C (giảm thu phí từ hoạt động tài trợ thương mại và ghi nhận vào thu nhập lãi),
(2) thu nhập từ kinh doanh ngoại hối giảm 56% YoY trong Q3-2024 do tỷ giá giảm sau khi Fed cắt 50 bps lãi suất trong tháng 9,
(3) lỗ 549 tỷ đồng từ mua bán trái phiếu. Thu nhập khác là điểm sáng khi thu hồi nợ xấu đã xử lý trong 9T-2024 tăng 35% YoY lên 4,500 tỷ đồng.
Chi phí hoạt động chỉ tăng nhẹ 7% YoY, nhưng hệ số CIR (TTM) tăng lên 34.9% do tăng trưởng Tổng thu nhập hoạt động giảm tốc.
CP dự phòng rủi ro tín dụng Q3-2024 và 9T-2024 lần lượt giảm 25% YoY và 8% YoY, mặc dù chất lượng tài sản suy giảm.
Theo đó, nợ xấu (sau xử lý rủi ro) tăng 4,700 tỷ đồng trong Q3 và tỷ lệ NPL tăng 20 bps QoQ lên 1.71%.
Nhóm khách hàng doanh nghiệp SME có tỷ lệ nợ xấu hơn 3% trong khi tỷ lệ nợ xấu bán lẻ thấp hơn ở mức 1.2%.
Các ngành nghề ghi nhận nợ xấu tập trung bao gồm: nông lâm nghiệp, thủy sản, xây dựng, thương mại xăng dầu, khí đốt. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu giảm về mức 116% so với mức 132% của quý trước.
Ngoài ra, nợ nhóm 2 tăng 2,600 tỷ trong quý 3, tương ứng tăng 9% QoQ, chủ yếu là các khoản nợ thuộc lĩnh vực nông nghiệp và bị ảnh hưởng bởi bão Yagi.
BID còn khoảng 12 nghìn tỷ đồng dư nợ tái cơ cấu theo TT 02, trong đó 9 nghìn tỷ đã được trích lập dự phòng đầy đủ, do đó, việc TT 02 không được gia hạn không có ảnh hưởng đáng kể tới chi phí dự phòng của ngân hàng trong năm sau.