Bài viết của PGS.TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo, Trường ĐH Kinh tế TPHCM đăng tải trên báo Đầu Tư Tài Chính. Tựa đề được người viết chỉnh sửa từ bài viết của tác giả.
Comment: Để giúp bạn đọc hiểu được cuộc chơi chiến tranh tiền tệ giữa bộ ba: EU, Mỹ, Trung Quốc và Nga, (và một số vùng lân cận) khác, tôi giới thiệu bài viết hay của PGS Nguyễn Khắc Quốc Bảo đến bạn đọc. Suy cho cùng mọi kế hoạch kinh tế đều khởi nguồn từ cuộc chơi tiền tệ. Sau thế chiến thứ hai, Mỹ đã buộc các bên ngồi vào bàn đàm phán Bretton Woods để thiết lập hệ thống tỷ giá mới, một cơ chế tiền tệ đưa đồng USD trở thành ngội vương. Mỹ đã tung ra kế hoạch Marshal cho Châu Âu để đưa đồng USD có vị thế ngày càng lớn mạnh trên thị trường tiền tệ quốc tế. Tiền tệ chính cái ngai vàng của một vị vua. Một quốc gia chỉ trở thành cường quốc của thế giới, hoặc “xưng vương, vưng bá” thì ấn tín của họ chính là sức mạnh của đồng tiền.
Ngay này, khi đồng USD đang bị suy yếu và lung lay, các nhà phân tích đang vẽ ra nhiều kịch bản khác nhau về tương lai của hệ thống tiền tệ. Ai sẽ nổi lên để thay thế cho đồng USD. Tác giả James Rickards, một nhà phân tích nổi tiếng về chiến tranh tiền tệ, trong cuốn sách “Road to Ruin” đã vẽ ra kịch bản về tương lai của SDR của quỹ tiền tệ IMF trở thành đồng tiền của thế giới. Để thực hiện kế hoạch này, giới tinh hoa toàn cầu thông qua hội nghị G20 đã quyết định một kế hoạch đầy toan tính trong việc đưa SDR thành đồng tiền quốc tế: ĐẦU TƯ CHO CÁC DỰ ÁN CHỐNG BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU.
CÁC CHƯƠNG TÌNH CHỐNG BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU ĐANG LÀ chiêu bài đề giới tinh hoa Mỹ chấp nhận một kịch bản cho sự nhường ngôi của đông USD cho SDR. Đồng USD vẫn là kẻ xứng danh ngôi vương nhưng chỉ còn là một ông vương không quyền lực. Kẻ đứng quyền lực thực sự là SDR (cơ chế hơi phức tạp để diễn giải nên mượn hình ảnh này để minh họa). Fed sẽ không còn là kẻ vạn người phải khiếp sợ mà là cuộc họp của G20 và các ông trùm tiền tệ tại BIS (ngân hàng thanh toán quốc tế, nơi các central banker tụ họp). Đó là một kế hoạch mà người Mỹ dễ dàng chấp nhận hơn.
Phía Đông bán cầu, Trung Quốc cũng đang muốn tranh giành ngôi báu. Họ không ngừng mua vàng để bảo đảm cho giá trị của đồng NDT. Họ không ngừng mở rộng quyền lực bằng cách liên minh với Nga, mở rộng vùng sử dụng đồng NDT và Rúp Nga. Nếu như phương Tây muốn dùng các chương trình chống biến đổi khí hậu để mở rộng vị thế của SDR, thì Trung Quốc có “Nhất Đới, Nhất Lộ”, một kế hoạch chi tiêu khổng lồ được khuyến khích sử dụng NDT và Rúp Nga.
Nếu như Phương Tây có IMF để tài trợ cho các dự án này thì Trung Quốc có AIIB chống lưng cho các dự án và ưu tiên sử dụng NDT.
Giống như giáo sư sử học người Anh, Nail Ferguson nói; “Quyền lực đang đi từ Tây Sang Đông”, chúng ta hãy chờ xem đồng NDT sẽ lớn mạnh như thế nào để cạnh tranh với USD hay SDR của phương Tây.
———————
Thấy gì từ Giấc mơ Trung Hoa?
(ĐTTCO)-Được lấy cảm hứng từ Con đường tơ lụa từ thế kỷ thứ 2 TCN, kế hoạch “Nhất Đới (Vành đai kinh tế con đường tơ lụa) Nhất Lộ (Con đường tơ lụa trên biển thế kỷ 21), hay còn gọi là OBOR (One Belt, One Road) của Tập Cận Bình sẽ nối Trung Quốc với phần còn lại của châu Á, châu Phi và cuối cùng là châu Âu. Đây là một đại chiến lược để hiện thực hóa “Giấc mơ Trung Hoa”, đưa Trung Quốc quay trở lại với những ánh hào quang trong quá khứ vào thời điểm giữa thế kỷ 21 để chào mừng nhân dịp 100 năm thành lập nước (1949 – 2049).
Từ Con đường tơ lụa
Con đường tơ lụa bắt đầu từ Phúc Châu, Hàng Châu, Bắc Kinh (Trung Quốc) qua Mông Cổ, Ấn Độ, Afghanistan, Kazakhstan, Iran, Iraq, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, xung quanh vùng Địa Trung Hải và đến tận châu Âu. Con đường cũng đi đến cả Hàn Quốc và Nhật Bản. Nó có chiều dài khoảng hay 6.437km. |
Trung Quốc là nước đầu tiên tìm ra cách trồng dâu nuôi tằm, lấy kén ươm tơ, dệt lụa sớm nhất trên thế giới vào thế kỷ 3 TCN. Tơ lụa thời đó được dành riêng cho vua chúa và hàng quý tộc, sau này lụa tơ tằm được đưa đi các vùng. Con đường tơ lụa dần được hình thành từ thế kỷ thứ 2 TCN – là một con đường huyền thoại nối Trung Hoa với vùng Tây Á, xuyên qua các quốc gia Trung Đông, châu Phi rồi kéo dài đến tận châu Âu.
Con đường này được coi là một hệ thống những con đường thương mại lớn nhất thế giới thời cổ đại, nó được coi như cầu nối giữa 2 nền văn minh Đông và Tây. Thật ra, ban đầu con đường này được thành lập với ý định quân sự nhiều hơn mục tiêu thương mại. Nhằm tìm kiếm và xây dựng đồng minh để khống chế bộ lạc Hung Nô, năm 138 TCN, vua Hán Vũ Đế đã cử Trương Khiên đi về phía Tây với chiếu chỉ ngoại giao trong tay để tìm và thiết lập quan hệ với người Nguyệt Chi. Nhưng không may Trương Khiên đã bị chính bộ lạc Hung Nô bắt giữ.
Năm 126 TCN, Trương Khiên trở về nước. Tuy thất bại nhưng với những kiến thức và thông tin thu được, ông đã viết cuốn sách Triều Dã Kim Tài. Chính quyển sách này đã kích thích mạnh các thương gia Trung Hoa về một con đường giao thương đầy ắp hàng hóa, vàng bạc và châu báu.
Từ đó, các thương nhân bắt đầu kết nối các tuyến đường nhỏ có sẵn lại với nhau, nhiều tuyến mới cũng được khai phá và an toàn hơn do được sự bảo vệ của triều đình. Tuyến đường Trương Khiên đã khai phá được người đời sau gọi là Con đường tơ lụa. Người Trung Hoa bắt đầu mang vải lụa, gấm vóc, sa, nhiễu… đến Ba Tư (Iran ngày nay) và La Mã. Đồng thời những doanh nhân các vùng khác cũng tìm đường đến với Trung Hoa.
Thời kỳ đầu, những bậc đế vương và những nhà quý tộc của La Mã thích lụa Trung Hoa đến mức họ cho cân lụa lên và đổi chỗ lụa đó bằng vàng với cân nặng tương đương. Chuyện cũng nói rằng Nữ hoàng Ai Cập Cleopatra lúc đó chỉ diện váy lụa Trung Quốc. Khi nhà Hán suy vong vào thế kỷ 3, Con đường tơ lụa cũng bị đình lại.
Đến thời nhà Đường, do thấy được giá trị của con đường giao thương Đông – Tây này, các vị hoàng đế đã ban hành hàng loạt chính sách khuyến khích thương mại và cũng từ đó, những nhà truyền giáo đã bắt đầu tìm đến với phương Đông. Vì vậy, không đơn thuần chỉ là huyết mạch thông thương buôn bán của những “thương nhân lạc đà”, Con đường tơ lụa còn là một hành trình văn hóa, tôn giáo đa dạng được hòa trộn.
Đến thời nhà Minh, Con đường tơ lụa đã bị Vương triều này khống chế và bắt mọi người phải nộp thuế rất cao, khiến những thương gia phải tìm đến những con đường vận chuyển bằng đường biển, điều này đã thúc đẩy một con đường tơ lụa trên biển hình thành và phát triển. Quảng Châu được xem là nơi khởi đầu của con đường tơ lụa trên biển.
Trước tiên là các thương gia Ả Rập và sau đó là Bồ Đào Nha, Anh, Pháp, Hà Lan lần lượt kéo đến buôn bán. Quảng Châu tràn ngập hàng hóa của nước ngoài và bản địa, Con đường tơ lụa trên bộ dần biến mất. Trong những chuyến khảo cổ sau này, người ta đã tìm ra khoảng 50.000 cổ vật nằm rải rác trên Con đường tơ lụa. Chúng là những hiện vật vô giá về lịch sử thương mại thời xưa. Con đường tơ lụa với những chuyến hàng đầy ắp đã trở thành dĩ vãng, những dấu chân lạc đà giờ đã bị cát bụi sa mạc xóa nhòa nhưng cái tên Con đường tơ lụa sẽ còn mãi trong lịch sử như một cây cầu kết nối ngoại thương giữa 2 nền văn minh Trung Quốc và La Mã.
Đến “Nhất Đới, Nhất Lộ”
OBOR là một kế hoạch thương mại quốc tế lớn nhất trong lịch sử cho đến lúc này, với tham vọng kết nối và hợp nhất về mặt thương mại cả 3 lục địa Á – Âu – Phi với tổng dân số hơn 4 tỷ người (bằng 1/2 dân số thế giới), chiếm 30% GDP toàn cầu, dự kiến tiêu tốn khoản ngân sách lên đến 5.000 tỷ USD. OBOR sẽ tạo ra 6 hành lang kinh tế gồm: Trung Quốc – Mông cổ – Nga; cầu nối mới Âu – Á trên đất liền; Trung Quốc – Trung Á – Tây Á; Trung Quốc – Pakistan; Bangladesh – Trung Quốc – Ấn Độ – Myanmar; Trung Quốc – bán đảo Đông Dương.
Kế hoạch này gồm 5 nội dung trụ cột: Chính sách khai thông; Cơ sở hạ tầng xuyên suốt; Tự do hóa thương mại; Hội nhập tài chính và lòng dân đồng nhất. Cơ sở hạ tầng gồm có đường sắt, đường cao tốc, cảng hàng không, cảng biển, viễn thông, đường ống dẫn dầu, năng lượng và kho vận.
Thực tế đến nay không ai thực sự biết rõ những quốc gia nào sẽ là thành viên của OBOR, dù rằng ai cũng biết con số này hơn 60 nước. Vì sao lại có nhiều quốc gia “tình nguyện” làm thành viên cho kế hoạch của Trung Quốc? Câu trả lời là để thực hiện kế hoạch này, Trung Quốc đang “rải” những dự án béo bở cho các quốc gia nằm trên hành lang OBOR. Hiện đã có 90 dự án đang được thực hiện với tổng giá trị lên đến 890 tỷ USD và trong tương lai chắc chắn con số này sẽ ngày càng được tăng lên.
Thế nhưng những dự án đầu tư với thương hiệu “made in China” đầy tai tiếng vì sao vẫn được chấp nhận ở các quốc gia này? Đó là bởi Trung Quốc đã khôn khéo đánh khi đánh trúng yếu điểm và ban phát đúng những thứ mà các quốc gia này mong muốn. Những dự án Trung Quốc thực hiện đều có tổng mức vốn khổng lồ và mang tính đột phá về công nghệ hay chiến lược, hứa hẹn thay da đổi thịt bộ mặt hạ tầng của các quốc gia sở tại, hay chí ít là tô vẽ thành quả chính trị cho các nhà cầm quyền ở đó.
Để thực hiện “Nhất Đới” kết nối hành lang Đông – Tây, Trung Quốc đã bắt tay vào việc xây dựng đường cao tốc nối liền Tân Cương với Erkeshtam của Kirghizistan, sau đó sẽ tiếp tục kéo dài ra đến Ouzbekistan, Tadjikistan, Turkmenistan, Iran, Thổ Nhĩ Kỳ.
Bên cạnh đó là 2 dự án nhằm mở cửa cho Trung Quốc đến gần với châu Âu, gồm cao tốc xuyên ngang Kazakhstan và Nga và cao tốc hướng tới Kazakhstan nhưng xuyên qua lòng biển Caspi. Hai công trình này tạo điều kiện để các tỉnh thuộc vùng nội địa nằm sâu bên trong của Trung Quốc tiếp xúc với bên ngoài, nhất là các vùng nghèo khó ở phía Tây.
Để thực hiện “Nhất Lộ”, Trung Quốc đã thuê một phần cảng biển Piraeus của Hy Lạp trong 35 năm. Từ Piraeus, hàng hóa của Trung Quốc có thể đến thị trường Đức, Hungary, Áo nhanh hơn 7-11 ngày. Tại Ấn Độ Dương, Trung Quốc vừa hoàn thành việc xây dựng đường ống dẫn dầu từ Myanmar đến Côn Minh dài 2.400km, rút ngắn đáng kể thời gian vận chuyển vừa không phải đi qua eo biển Malacca tiềm ẩn nhiều rủi ro.
Bắc Kinh còn tài trợ xây dựng cảng chiến lược Gwardar (Pakistan) tại cửa ngõ eo biển Hormuz, cảng nước sâu Hambantota (Sri Lanka), khi đưa chúng vào hoạt động sẽ trở thành căn cứ tiếp liệu cho hải quân Trung Quốc. Tại 2 đảo quốc Seychelles và Malpes, Trung Quốc cũng hợp tác xây dựng căn cứ cho hải quân của mình. Việc này cho thấy đây hoàn toàn không đơn thuần chỉ là kế hoạch thương mại “tơ và lụa”.
Con đường tơ lụa hiện đại là một mạng lưới các đường sắt nối Bắc Kinh với châu Âu. |
Trung Quốc còn quan tâm dự án kênh đào Kra dài 102km, trị giá 28 tỷ USD, chạy ngang đoạn hẹp nhất trên bán đảo Malaysia, phần thuộc Thái Lan, rút ngắn cuộc hành trình 1.200km nhờ không qua eo biển Malacca.
Cuối năm 2014, Tập đoàn Hồng Công Nicaragua Development (HKND) của Trung Quốc đã trúng thầu xây dựng kênh đào Nicaragua nối liền Đại Tây Dương với Thái Bình Dương dài 280km, rộng và sâu hơn kênh đào Panama, trị giá 50 tỷ USD, dự kiến hoàn thành vào năm 2019. Tháng 5-2015, Trung Quốc và Brazil ký hợp đồng xây dựng đường sắt xuyên lục địa từ Brazil đến Peru, nối liền Đại Tây Dương với Thái Bình Dương dài 3.500km, được ví von là “kênh đào Panama trên cạn”, trị giá hàng chục tỷ USD.
Để đảm bảo nguồn lực tài chính cho kế hoạch OBOR, Trung Quốc đã giành chiến thắng ngoại giao ngoạn mục khi đạt được sự đồng thuận để thành lập Ngân hàng Đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB) với vốn ban đầu 100 tỷ USD. Trung Quốc là nước đóng góp nhiều nhất với khoảng 30%, nắm giữ quyền phủ quyết bất chấp sự phản đối kịch liệt của Hoa Kỳ.
Ý đồ chiến lược lâu dài của Bắc Kinh đối với AIIB là sẽ sử dụng định chế tài chính này để thu xếp cho hàng hóa và dịch vụ tài chính của Trung Quốc tiến ra toàn cầu, nhằm giải quyết năng lực công nghiệp đang có dấu hiệu dư thừa sau một thời gian dài được đầu tư quá mức. Kế đến AIIB sẽ thu hút dòng chu chuyển vốn quốc tế về khu vực OBOR với vai trò trung tâm tài chính của Trung Quốc.
Cuối cùng, AIIB sẽ từng bước quốc tế hóa đồng Nhân dân tệ, biến đồng tiền này có khả năng chuyển đổi, được chấp nhận trong các giao dịch thanh toán quốc tế tương tự như USD và các đồng tiền mạnh khác. Điều này bộc lộ rõ ràng tham vọng của Bắc Kinh về một trung tâm tài chính toàn cầu của quốc gia này trong một tương lai gần.
Ngoài ra, để tiếp tục lôi kéo và ràng buộc Nga, Ấn Độ, Nam Phi và Brazil, Trung Quốc đã đề xuất và thành lập Ngân hàng Phát triển Mới (NDB) có trụ sở chính đặt tại Thượng Hải. Mục tiêu của NDB là huy động nguồn lực cho các dự án cơ sở hạ tầng và phát triển bền vững cho các quốc gia trong OBOR.
Chiến lược bành trướng toàn cầu
Vào lúc 8 giờ, 8 phút, 8 giây ngày 8-8-2008, Trung Quốc đã khai mạc Thế vận hội Bắc Kinh 2008. Tổng cộng có 6 con số 8 thường được đọc trại ra theo tiếng Hán là Lộc – Phát, là con số người Trung Hoa rất thích. Hôm đó, Trung Quốc đã đốt 2 tỷ USD trong vỏn vẹn chỉ 45 phút khai mạc để tạo ra những màn trình diễn ngoạn mục, với mục đích gửi cho thế giới một thông điệp rằng những gì người Trung Quốc muốn thì sẽ đạt được và đạt được bằng mọi giá. |
Có thể thấy OBOR là một kế hoạch khôn ngoan và tỏ ra hoàn hảo khi cùng một lúc Trung Quốc đã giải quyết được cả vấn đề đối nội và đối ngoại. Bằng việc kết nối hành lang kinh tế Đông – Tây, Bắc Kinh muốn nâng cao đời sống các dân tộc thiểu số ở khu vực phía Tây. Đây là khu vực có địa hình hiểm trở, đói nghèo dẫn đến tình trạng bất ổn và cũng là động cơ cho các phong trào đòi độc lập như ở Tân Cương và Tây Tạng.
Mặt khác, kế hoạch trên sẽ giải quyết được phần nào tình trạng hàng trăm lao động di dân từ các nơi hẻo lánh tràn về các thành phố miền Đông để tìm việc làm và tạo ra nhiều vấn nạn. Đặc biệt, với OBOR, Trung Quốc kỳ vọng giải quyết được vấn đề năng lực sản xuất dư thừa đang ngày càng cấp bách, tạo ra động lực tăng trưởng kinh tế mới sau khi phải gánh chịu những hậu quả nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, nhất là về thương mại và đầu tư. Về đối ngoại, OBOR sẽ là đối trọng với Hoa Kỳ nhằm chống lại chiến lược làm suy yếu vai trò của Trung Quốc trong khu vực và ngăn cản bước tiến của Trung Quốc ra thế giới.
Nếu kế hoạch OBOR thành công, Trung Quốc sẽ làm cho các quốc gia thành viên và láng giềng bị phụ thuộc ngày càng nặng nề về đầu tư, thương mại và tài chính. Trong khi đó, các quốc gia còn lại trên thế giới sẽ trông cậy vào vai trò thúc đẩy tăng trưởng kinh tế toàn cầu của Bắc Kinh với tư cách là quốc gia lãnh đạo trong khối OBOR. Như vậy, Trung Quốc đã hoàn thành quá trình xác lập lại một trật tự thế giới mới với vai trò trung tâm, xứng đáng là đối trọng cân bằng với Hoa Kỳ.
Có quan điểm cho rằng cách làm của Trung Quốc nhằm thúc đẩy quá trình khu vực hóa trên diện rộng để phá vỡ cấu trúc toàn cầu hóa do Hoa Kỳ xác lập. Song đây là quan niệm sai lầm. Bởi lẽ cách tiếp cận của Trung Quốc hoàn toàn khác với cấu trúc thương mại đa phương các nước ASEAN đang áp dụng. Chiến lược của Trung Quốc là cấu trúc kết nối trung tâm (Trung Quốc) với ngoại vi (các quốc gia thành viên), dựa trên các nguyên tắc do Trung Quốc đơn phương ấn định. Trước tiên là thực tế có đi có lại trong ngoại giao song phương.
Căn cứ vào các nguyên tắc đã nêu, nếu các nước khác tuân thủ, Bắc Kinh sẽ tôn trọng lại. Nhưng nếu họ làm trái chắc chắn sẽ bị trừng phạt. Điều này làm cho quan hệ giữa Bắc Kinh với chính phủ các nước càng chặt chẽ, trong khi quan hệ giữa chính phủ các nước thành viên sẽ ngày càng lỏng lẻo. Kế sách thâm sâu này sẽ làm cho quá trình hội nhập khu vực bị cản trở và các quốc gia ngày càng khó khăn trong việc xác lập các mối quan hệ không có Trung Quốc, dần dần củng cố và khẳng định vị thế trung tâm độc tôn của Trung Quốc.
PGS.TS Nguyễn Khắc Quốc Bảo, Trường ĐH Kinh tế TPHCM