Bài học khi đầu tư vào các thị trường mới nổi của phù thủy Martin Taylor.

Martin Taylor là người sáng lập Nevsky Fund, một công ty quản lý quỹ đầu tư mạo hiểm được thành lập ngay giữa thị trường giá xuống. Nhưng điều đó không ngăn cản ông ta kiếm được lợi nhuận khổng lồ. Ông thừa nhận mình không thể mạo hiểm quá nhiều, đặc biệt là khi đang quản lý tiền của người khác. Do đó, khi thị trường tăng, ông cố gắng nắm bắt khoảng 70% đến 80% lợi nhuận của toàn bộ con sóng tăng đó, nhưng khi thị trường giảm, ông chỉ cố gắng lỗ 30 hoặc 40% của toàn bộ quá trình giảm giá đó.

Ông là người có cá tính. Ông không muốn các quy tắc ràng buộc bởi thành tích đầu tư hàng tháng (ngắn hạn) khóa chân mình. Ông từng tâm sự vào năm 2012 rằng, Apple là khoản đầu tư ngắn hạn không hiểu quả khi đó, nhưng ông kiên quyết nắm giữ cho mục tiêu dài hạn.

Hơn nữa, ông tuyên bố rằng cổ phiếu Apple là khoản đầu tư lớn nhất của mình vì nó gần như chỉ được các nhà phân tích ở Mỹ phân tích. Những nhà phân tích này dường như nghĩ rằng tiềm năng phát triển của công ty bị hạn chế bởi thị trường Mỹ; tuy nhiên, họ bỏ qua thực tế là trong khi Mỹ chỉ có khoảng 300 triệu dân thì trên toàn thế giới có khoảng 6.7 tỷ người. Ví dụ, Apple đang hoạt động tốt nhất ở Trung Quốc, nơi có hơn 900 triệu thuê bao điện thoại di động và họ đã bán được khoảng 3 triệu điện thoại ở đó. Ngoài ra, ông tin rằng Apple sẽ lặp lại thành công vang dội ở Mỹ trên toàn cầu. Nhiều nhà đầu tư ngại Apple chủ yếu vì giá cổ phiếu đã tăng vọt, nhưng theo Taylor, giá cổ phiếu thực sự rẻ dựa trên dự báo thu nhập của ông. Điều quan trọng cần lưu ý là Martin đã nói về Apple vào năm 2012.

Lược sử về Martin Taylor

Sau khi theo học lịch sử tại King’s College, Cambridge, Martin Taylor gia nhập Coopers & Lybrand làm kiểm toán viên vào năm 1991 và trở thành kế toán viên công chứng vào năm 1994. Sau đó, ông chuyển đến Baring Asset Management, quản lý các quỹ đầu tư tập trung vào Đông Âu và các thị trường mới nổi. Ông rời Barings để gia nhập Thames River Capital, nơi ông điều hành Nevsky Fund (từ năm 2007, ông điều hành quỹ này thông qua công ty riêng của mình). Đầu năm 2011, ông chuyển đổi quỹ thành một quỹ đầu tư được niêm yết, do ông điều hành cho đến năm 2015, khi ông nghỉ hưu.

Chiến lược của ông là gì?

Taylor tập trung vào các thị trường mới nổi, đặc biệt là các quốc gia thuộc Liên Xô cũ. Ông kết hợp phương pháp tiếp cận từ trên xuống (dự báo xu hướng kinh tế) với phương pháp tiếp cận từ dưới lên (tìm kiếm các công ty riêng lẻ có thể hưởng lợi). Ông đóng cửa quỹ của mình vào năm 2016 sau khi kết luận rằng phương pháp này không còn có thể sinh lời nếu các công ty (và quốc gia) không sẵn sàng cởi mở về hiệu quả hoạt động của họ.

Chiến lược này có hiệu quả không?

Trong hai năm cuối cùng, thành tích của Nevsky tương đối kém, lỗ 1.4% vào năm 2014 và chỉ lãi được 0.4% vào năm 2015. Tuy nhiên, từ năm 2000 đến năm 2015, các phiên bản khác nhau của Quỹ Nevsky mang lại lợi nhuận trung bình 18.4% mỗi năm. Do đó, 1,000 bảng Anh đầu tư vào quỹ này sẽ có giá trị 13,130 bảng Anh vào năm 2015. Con số này vượt xa mức lợi nhuận trung bình 7,4% mỗi năm của chỉ số MSCI Emerging Markets hoặc 3,5% mỗi năm của chỉ số MSCI World trong cùng kỳ. Nếu tính cả thành tích của ông tại Barings, lợi nhuận của ông đạt 22% một năm, so với mức 5% – 6% của các chỉ số toàn cầu của thị trường phát triển và mới nổi.

Thương vụ thành công nhất của ông là gì?

Trong thời gian làm việc tại Barings, Taylor nhận thấy các nhà tài phiệt Nga đang tích trữ một lượng lớn tiền ở nước ngoài, dẫn đến việc dự trữ ngoại tệ giảm xuống, mâu thuẫn với những gợi ý chính thức về thặng dư thương mại. Khi những tin đồn về sức khỏe của Yeltsin khiến cổ phiếu Nga lung lay vào tháng 9 năm 1997, ông nhận ra bong bóng sắp vỡ và bán tháo tất cả cổ phiếu Nga (chiếm 40% vốn của ông theo chuẩn). Ông không những tránh được cú sụt giảm 80% thị trường sau đó mà còn có thể mua lại cổ phiếu các thị trường mới nổi với giá rẻ sau vỡ nợ tháng 10 năm 1998.

Những bài học gì nhà đầu tư có thể học được từ ông?

Phân tích kỹ lưỡng dữ liệu kinh tế, thay vì chỉ chấp nhận chúng ở mức bề mặt, có thể tiết lộ thông tin mà người khác có thể bỏ qua. Tuy nhiên, giao dịch cần có lợi thế, vì vậy nếu bạn cảm thấy chiến lược của mình không còn hiệu quả hoặc kiếm tiền trở nên khó khăn, thì việc tạm dừng giao dịch hoặc thử một cách tiếp cận khác hoàn toàn không phải điều đáng xấu hổ.

Jack D. Schwager (2012) tóm tắt bài học Khi lựa chọn cổ phiếu ở các thị trường mới nổi

Taylor tìm kiếm ba đặc điểm thiết yếu:

  1. Triển vọng vĩ mô thuận lợi – Đánh giá vĩ mô của Taylor sẽ ảnh hưởng đến danh mục theo hai cách chính. Thứ nhất, Taylor sẽ tập trung các vị thế mua vào các quốc gia có nền tảng cơ bản tích cực nhất. Thứ hai, triển vọng vĩ mô toàn cầu có thể ảnh hưởng đến tổng tỷ trọng ròng của danh mục đầu tư. Ví dụ, từ cuối năm 2008 đến đầu năm 2009, các yếu tố cơ bản vĩ mô toàn cầu rất tiêu cực đã khiến tỷ trọng ròng giảm đáng kể so với mức chỉ dựa trên nền tảng cơ bản của từng công ty.

  2. xu hướng tăng dài hạn – Taylor tìm kiếm các tình huống có xu hướng tăng dài hạn dựa trên nền tảng cơ bản vững chắc để hỗ trợ giao dịch. Ví dụ, xu hướng mạnh mẽ về việc sử dụng điện thoại di động ngày càng tăng ở Nga vào đầu những năm 2000 là một yếu tố quan trọng khiến Taylor đặt một vị thế mua lớn và rất có lợi nhuận vào các công ty trong lĩnh vực này. Một ví dụ khác, kỳ vọng của Taylor rằng thị phần toàn cầu của Apple đối với các sản phẩm của họ sẽ có xu hướng tăng ổn định trong những năm tới là lý do chính khiến Apple trở thành khoản nắm giữ lớn nhất của ông tại thời điểm phỏng vấn này (tháng 4 năm 2011).

  3. Công ty tốt – Taylor tìm kiếm các công ty có triển vọng tăng trưởng hấp dẫn được định giá hợp lý so với thu nhập dự kiến trong tương lai. Ông ấy tránh các công ty mà ông gọi là “nhàm chán” (thường là cổ phiếu beta thấp) bất kể chúng có phải là giá trị tốt hay không.

Kế hoạch trở lại

Ông Martin Taylor, nhà đầu tư người Anh, người đã đóng quỹ đầu tư mạo hiểm trị giá 1.5 tỷ đô la (1.15 tỷ bảng Anh) mang tên Nevsky Capital và nghỉ hưu ở tuổi 46, có kế hoạch quay trở lại thị trường với một cái nhìn mới mẻ và một công ty mới.

Tháng 12 năm 2015, Taylor và đồng sáng lập Nick Barnes thông báo với các nhà đầu tư rằng họ khó có thể tạo lại được lợi nhuận trong quá khứ và đã trả lại tiền cho khách hàng.

Đây là một động thái hiếm hoi trong ngành và diễn ra sau một năm đầy biến động trên các thị trường tài chính với sự sụt giảm của dầu mỏ, hàng hóa và các thị trường mới nổi.

Trong một lá thư đầy màu sắc gửi đến các nhà đầu tư, Taylor cho biết lợi nhuận tương lai của Nevsky sẽ bị cản trở bởi dữ liệu kinh tế vĩ mô bị bóp méo, sự trỗi dậy của các chính phủ dân tộc chủ nghĩa khó lường và các quỹ thuật toán làm trầm trọng thêm sự biến động của cổ phiếu.

Nhưng vào năm 2018, sau gần 3 năm nghỉ hưu, ông sẽ ra mắt Crake Asset Management, một quỹ đầu tư mạo hiểm toàn cầu có trụ sở tại London vào tháng 10 năm 2019 để đặt cược vào cổ phiếu và giao dịch các hàng hóa cơ sở.

Chiến lược này tương tự như chiến lược của Nevsky.

Tôi đã nghỉ hưu và tôi đã nói rằng tôi sẽ không bao giờ quay lại, và tôi hoàn toàn nghiêm túc vào thời điểm đó, nhưng rõ ràng là bây giờ tôi đã thay đổi quyết định“, Taylor, 49 tuổi, người đã dành hai năm qua để giảng dạy và giao dịch tiền của riêng mình, cho biết.

Nhìn lại, tôi nhận ra rằng mình đã kiệt sức. Tôi đã điều hành một quỹ đầu tư mạo hiểm trong hơn 15 năm,” ông nói với Reuters. “Bây giờ, sau kỳ nghỉ ngơi hai năm rưỡi, tôi đã cảm thấy được hồi phục và muốn tiếp tục làm việc này trong 15 năm nữa.”

Hai nhà đầu tư giấu tên cho biết với Reuters rằng họ hoan nghênh động thái này.

Sự trỗi dậy của giao dịch thuật toán trong thời gian nghỉ hưu của ông đồng nghĩa với việc thị trường có thể đang tiến gần đến điểm tipping point mà tại đó một quỹ như của ông có thể dễ dàng kiếm tiền hơn, ông nói.

Sự thống trị ngày càng tăng của các nhà đầu tư thụ động cuối cùng sẽ khiến thị trường cơ sở trở nên kém hiệu quả hơn vì sẽ có ngày càng ít các nhà quản lý thực sự năng động trên thị trường“, ông nói.

Tại công ty mới của mình, Taylor sẽ có sự tham gia của những người đồng sáng lập Yuri Maslov, cựu đối tác tại Nevsky, và Richard Walker, người trước đây từng làm việc tại Societe Generale, theo hồ sơ của Companies House của Anh.

Taylor sẽ là Giám đốc đầu tư và quản lý quỹ của công ty, trong khi Maslov sẽ là Giám đốc nghiên cứu và Walker là Giám đốc điều hành và đồng quản lý.

Crake cũng sẽ bổ sung thêm bốn đến năm nhà phân tích trong vài tháng tới và đặt mục tiêu hoàn thành đội ngũ vào tháng 4. Quỹ này sẽ bắt đầu nhận tiền từ bên ngoài kể từ ngày 01/10/2019.

Sau 2.5 năm nghỉ việc, tôi rất mong muốn quay trở lại với tình yêu đầu tiên của mình nhưng tôi muốn thực hiện nó một cách suôn sẻ. Đó là lý do tại sao phải mất thêm một năm nữa trước khi tôi nhận tiền từ khách hàng”, ông nói. “Trước tiên tôi cần xây dựng và đào tạo đội ngũ của mình.”

Tổng tài sản của Quỹ Nevsky Plc đạt đỉnh 3.6 tỷ đô la và mang lại lợi nhuận ròng 18.4% mỗi năm sau phí trong hơn 15 năm. Dữ liệu từ công ty theo dõi ngành Hedge Fund Research cho thấy, mức trung bình của các quỹ cùng ngành chỉ đạt được 2.5% trong cùng khoảng thời gian.

Nevsky được thành lập vào năm 2000 bởi Taylor, Barnes và Rory Landman, người đã rời công ty vào năm 2005 và hiện là thủ quỹ cấp cao tại Trinity College, Cambridge.

Đoạn phỏng vấn hay trong cuốn sách Hedge Fund Wizard

(Pre Order Tháng 8/2024) : Hedge Fund Market Wizards (Những Phù Thủy Quỹ Phòng Hộ) của Jack D. Schwager (2012)

Ông có bất kỳ quy tắc kiểm soát rủi ro cụ thể nào không?

Chúng tôi chưa bao giờ và sẽ không bao giờ sử dụng bất kỳ hình thức kiểm soát rủi ro định lượng nào, bởi vì tất cả các mô hình kiểm soát rủi ro định lượng đều sử dụng độ biến động lịch sử. Nó giống như việc lái xe sambil nhìn vào gương chiếu hậu. Nếu bạn sử dụng độ biến động làm hướng dẫn, và độ biến động đột ngột tăng lên, bạn sẽ – Chết thật! – nhận thấy rằng rủi ro của bạn lớn hơn nhiều so với bạn nghĩ, nhưng đến lúc đó thì tài khoản của bạn đã cháy sạch. Đó chính xác là những gì đã xảy ra với rất nhiều nhà quản lý vào năm 2008. Chúng tôi cũng không bao giờ sử dụng các lệnh dừng lỗ.

Vậy ông làm gì để quản lý rủi ro?

Là lẽ thường (common sense). Có nhiều điều kiện cần thiết để một giao dịch diễn ra. Liệu chúng tôi có thích công ty đó không? Nó có rẻ không? Nó có tạo ra dòng tiền không? Chúng tôi có tin tưởng ban quản lý không? Tôi có tin tưởng vào dự báo của mình không? Liệu triển vọng vĩ mô có thuận lợi không?

Nếu một công ty đáp ứng tất cả các tiêu chí, thì bước tiếp theo là xác định quy mô vị thế thích hợp. Xét theo mức độ rủi ro của công ty và quốc gia, tôi nghĩ quy mô vị thế thích hợp là bao nhiêu? Nếu đó là một thứ gì đó rất rủi ro, thì một vị thế lớn đối với tôi có thể là 1% đến 5% danh mục đầu tư. Nếu đó là một vị thế rủi ro thấp hơn mà tôi có niềm tin rất cao, thì vị thế có thể lên tới 20% danh mục đầu tư, như trường hợp hiện tại của Apple. Tôi chấp nhận rằng nếu bất cứ điều gì xảy ra với Steve Jobs, cổ phiếu có thể giảm 10%. Đó sẽ là một cú đánh 2% vào danh mục đầu tư của tôi. Tôi có thể chấp nhận điều đó vì tôi nghĩ cổ phiếu sẽ tăng gấp 3 lần trong 4 năm tới.

Nếu tôi có một vị thế lớn như vậy trong Apple, tôi có nên nắm giữ một vị thế lớn khác trong cùng ngành không? Không, tôi không thể vì một sự kiện hoặc diễn biến tiêu cực có thể tác động đến toàn bộ ngành thay vì chỉ riêng Apple.

Trong việc kiểm soát rủi ro, điều rất quan trọng là có những người trong nhóm mà bạn tôn trọng ý kiến, những người có thể phản bác lại các ý tưởng của bạn theo cách khiến bạn phải dừng lại, lắng nghe và kiểm tra quan điểm của riêng mình. Đối tác của tôi, Nick Barnes, đóng vai trò quan trọng đối với tôi trong vấn đề này.

Steve Jobs qua đời khoảng nửa năm sau cuộc phỏng vấn này. Mặc dù cổ phiếu Apple giảm giá trong những tuần trước khi ông qua đời, nhưng trớ trêu thay, cổ phiếu lại tăng cao hơn sau sự kiện này.

Có lý do chung nào khiến dự báo của ông đối với một cổ phiếu, khác với nhận định của thị trường không?

Thông thường, đó là vì có một xu hướng nào đó mà tôi cho là lẽ thường nhưng thị trường không đánh giá đúng vì nó đang ngoại suy lịch sử thay vì nhìn về tương lai. Ví dụ, Apple chưa bao giờ có doanh số đáng kể ở Ấn Độ hay Trung Quốc, vì vậy suy đoán của thị trường là họ sẽ không bao giờ có được, điều này thật là ngu ngốc. Một ví dụ khác, trong quý 4 năm ngoái, Apple đã bán được 7.3 triệu máy tính bảng iPad. Dự báo trung bình của thị trường về doanh số iPad trong năm nay là 29.5 triệu máy. Tất cả những gì họ đã làm là lấy doanh số bán hàng quý 4 của năm ngoái và tính toán chúng thành doanh số cả năm. Điều họ không tính đến là Apple đã cách mạng hóa một sản phẩm hiện có, vốn đã vượt xa bất kỳ đối thủ cạnh tranh nào. Không chỉ là một sản phẩm tốt hơn nhiều, mà Steve Jobs còn quyết định định giá nó một cách cạnh tranh thay vì ở mức cao. Với quy mô kinh tế của Apple, không ai khác có thể cạnh tranh nổi. Vì vậy, chúng tôi cho rằng họ sẽ bán được 40 triệu iPad trong năm nay và 60 triệu iPad trong năm tới. Dự báo của thị trường cho năm sau là 40 triệu. Nó không phải là khoa học tên lửa; nó chỉ là lẽ thường.

Mọi thứ chúng ta đã nói đến đều liên quan đến phân tích cơ bản. Điều đó có ngầm ý rằng, ông không hề sử dụng phân tích kỹ thuật chút nào phải không?

À vâng, biểu đồ kỹ thuật rất quan trọng. Sau khi đã hoàn thành phân tích cơ bản và quyết định mua một cổ phiếu, trước tiên tôi sẽ xem biểu đồ trước khi vào lệnh. Nếu cổ phiếu được mua quá mức (overbought), nó sẽ không ngăn tôi mua, nhưng tôi sẽ bắt đầu với một vị thế nhỏ vì khả năng giá điều chỉnh giảm là lớn hơn. Nếu thay vào đó, tôi vào toàn bộ vị thế và sau đó cổ phiếu điều chỉnh mạnh, thì tôi sẽ cảm thấy khủng khiếp. Giả sử tôi thực sự thích một công ty và muốn đưa 10% danh mục đầu tư vào đó. Nếu cổ phiếu được mua quá mức, thì tôi có thể chỉ bắt đầu với một vị thế 1%. Nếu cổ phiếu cứ tăng giá thì tôi cũng hài lòng vì đã mua được ít nhất một số cổ phiếu. Tôi cũng sẽ sẵn sàng mua thêm vì một phần vị thế đã được mua vào với giá thấp hơn. Ngược lại, nếu ban đầu tôi không mua bất kỳ cổ phiếu nào vì cổ phiếu được mua quá mức, thì tôi sẽ không bao giờ mua bất kỳ cổ phiếu nào của nó, điều đó sẽ là một sai lầm khủng khiếp.

Cũng quan trọng không kém, nếu tôi quyết định mua một cổ phiếu dựa trên phân tích cơ bản, và sau đó xem biểu đồ và thấy rằng nó hoạt động kém hơn đáng kể so với thị trường, thì tôi sẽ kiểm tra xem ai đã bán cổ phiếu. Sự yếu kém về giá như vậy có thể cho thấy tất cả các nghiên cứu cơ bản của chúng tôi đều vô giá trị vì ban quản lý đã nói dối chúng tôi. Tôi cũng sử dụng biểu đồ để hỗ trợ việc gia tăng vị thế. Nếu tôi có xu hướng tăng giá đối với một cổ phiếu nhưng không có đủ vị thế, và sau đó cổ phiếu đột phá (break out) trên biểu đồ, thì tôi sẽ vào toàn bộ vị thế vì sự đột phá này xác nhận rằng thị trường hiện đang nhìn nhận giống như tôi.

Trả lời