Toàn cảnh KQKD Q4-2024 và 2024 của các ngân hàng niêm yết

LNTT 4Q24 của 27 ngân hàng niêm yết đạt 81 nghìn tỷ đồng, tăng trưởng 22% YoY, đưa LNTT 2024 đạt 299 nghìn tỷ đồng, tăng trưởng +18% YoY.

Trong 4Q24, thu nhập lãi thuần vẫn là động lực tăng trưởng chính cho Tổng thu nhập hoạt động và LNTT, với điểm nhấn về tăng trưởng tín dụng ước đạt gần 18%, mức cao nhất kể từ năm 2018. NIM 4Q24, mặc dù giảm 20 bps so với cùng kỳ 2023, nhưng cải thiện nhẹ 10 bps so với 3Q24 nhờ lợi suất tài sản tăng thêm 15 bps trong khi chi phí vốn đi ngang so với quý trước. Chúng tôi tin rằng diễn biến mở rộng của NIM so với quý trước có sự hỗ trợ của việc hoàn nhập thu nhập lãi đã thoái sau khi chất lượng tài sản có sự cải thiện đáng kể trong 4Q24.

Thu nhập khác có sự tăng trưởng vượt trội nhờ thu nhập từ thu hồi nợ xấu (đã xử lý rủi ro) – đạt gần 15 nghìn tỷ đồng và tăng trưởng 66% YoY và chi phí dự phòng rủi ro tín dụng đi ngang so với cùng kỳ là hai điểm nhấn đáng chú ý khác trong bức tranh KQKD 4Q24.

Chất lượng tài sản có sự chuyển biến tích cực trong 4Q24 với quy mô nợ xấu (NPL), tỷ lệ NPL, và nợ xấu hình thành ròng (trước xử lý rủi ro) đều giảm so với quý trước. tỷ lệ bao phủ nợ xấu cải thiện nhẹ lên 91% từ 83% trong 3Q24. Đáng chú ý, quy mô nợ xấu hình thành ròng đã giảm về mức thấp nhất kể từ 1Q22.

Chúng tôi ước tính ngành ngân hàng đang được giao dịch ở mức P.B 1.5 lần, so với bình quân lịch sử 5 năm là 1.7 lần. Chúng tôi cho rằng mức định giá ngành hiện nay là tương đối hấp dẫn khi xét đến xu hướng cải thiện chất lượng tài sản có nhiều khả năng tiếp diễn, đi kèm với khả năng ROE tăng trở lại khi tăng trưởng lợi nhuận được dự báo tích cực hơn trong 2025, kết hợp với chất xúc tác “nâng hạng thị trường” đối với các cổ phiếu vốn hóa lớn. 

KQKD 4Q24 mang nhiều tín hiệu tích cực ở tăng trưởng tín dụng và chất lượng tài sản

Về tăng trưởng lợi nhuận toàn ngành:

  • LNTT 4Q24 của 27 ngân hàng niêm yết đạt 81 nghìn tỷ đồng, tăng trưởng 22% YoY (Hình 1). Thu nhập lãi thuần vẫn là động lực tăng trưởng chính cho Tổng thu nhập hoạt động (TOI) và LNTT, với điểm nhấn về tăng trưởng tín dụng ước đạt gần 18%, mức cao nhất kể từ năm 2018. Ngoài ra, chúng tôi nhận thấy (1) cấu phần thu nhập khác có sự tăng trưởng vượt trội nhờ thu nhập từ thu hồi nợ xấu (đã xử lý rủi ro) – đạt gần 15 nghìn tỷ đồng và tăng trưởng 66% YoY và (2) chi phí dự phòng rủi ro tín dụng đi ngang so với cùng kỳ là hai điểm nhấn đáng chú ý khác trong bức tranh KQKD cũng như củng cố cho diễn biến cải thiện của chất lượng tài sản của ngành ngân hàng trong 4Q24.
  • Lũy kế cả năm 2024, LNTT các ngân hàng niêm yết đạt 299 nghìn tỷ đồng, tăng trưởng +18% YoY (Hình 2). Trong đó, LNTT của 10 ngân hàng thuộc danh mục theo dõi của chúng tôi* đạt 232 nghìn tỷ đồng, tăng trưởng 15% YoY, tương đối phù hợp với kỳ vọng đầu năm.

Đối với các cấu phần trong Tổng thu nhập hoạt động (TOI):

  • TN lãi thuần 4Q24 tăng trưởng 11% YoY, cao hơn mức tăng của 4Q23 (6% YoY) với sự dẫn dắt của tăng trưởng tín dụng, ước đạt 17.8% – mức cao nhất kể từ 2018, khi NIM 4Q24 bị thu hẹp (-20 bps YoY) nhưng có phần hạn chế hơn so với cùng kỳ năm 2023 (-50 bps YoY). Đáng chú ý, NIM 4Q24 cải thiện nhẹ 10 bps so với 3Q24 nhờ lợi suất tài sản tăng thêm 15 bps trong khi chi phí vốn đi ngang so với quý trước (Hình 4). Chúng tôi tin rằng diễn biến mở rộng của NIM so với quý trước có sự hỗ trợ của việc hoàn nhập thu nhập lãi đã thoái sau khi chất lượng tài sản có sự cải thiện đáng kể trong 4Q24. Lũy kế cả năm, NIM cuối năm 2024 của các ngân hàng niêm yết giảm 10 bps YoY xuống 3.3% với đà giảm chậm lại so với năm 2023 (-40 bps YoY).

  • Các nguồn thu nhập ngoài lãi 4Q24 tăng trưởng mạnh 32% YoY, chủ yếu được dẫn dắt bởi thu nhập từ thu hồi nợ xấu (+66% YoY) và thu nhập từ mua bán chứng khoán đầu tư và kinh doanh (chủ yếu là TPCP) với mức tăng là 67% YoY (Hình 6). Trong khi thu nhập từ thu hồi nợ xấu có sự tăng trưởng tích cực trên diện rộng và đột biến ở số ít ngân hàng như VPB, VCB, BID, CTG, thì tăng trưởng của thu nhập từ kinh doanh chứng khoán được đóng góp chủ yếu bởi đột biến chủ yếu ở BID và MBB. Ngược lại, tăng trưởng của thu nhập từ phí dịch vụ vẫn tương đối yếu (-13% YoY), vốn bị ảnh hưởng bởi thị trường banca chưa phục hồi và sự dịch chuyển của nguồn thu nhập từ UPAS L/C sang TN lãi.

Về chi phí hoạt động:

  • CP hoạt động 4Q24 và 2024 lần lượt tăng trưởng 19% YoY và 11% YoY, và CIR toàn ngành trong 2024 đạt 33.5%, cải thiện khoảng 80 bps so với năm 2023.
  • Trong khi tỷ trọng chi phí cho nhân viên có xu hướng giảm qua các năm, các ngân hàng tiếp tục gia tăng tỷ trọng CP hoạt động khác (Hình 8), trong đó chủ yếu là chi cho các hoạt động quản lý, công vụ, bao gồm các khoản chi về nghiên cứu và ứng dụng công nghệ, và chi cho các sáng kiến cải tiến, tăng năng suất lao động. Như vậy, các ngân hàng tiếp tục ưu tiên cho các hoạt động đầu tư chuyển đổi số nhằm tăng tính cạnh tranh cũng như nâng cao năng suất hoạt động, phần nào được thể hiện qua xu hướng giảm của tỷ lệ CIR từ 2019 tới nay.

Về CP trích lập dự phòng và chất lượng tài sản:

  • Chất lượng tài sản có sự chuyển biến tích cực trong 4Q24 với quy mô nợ xấu (NPL), tỷ lệ NPL, và nợ xấu hình thành ròng (trước xử lý rủi ro) đều giảm so với quý trước (Hình 9, 11). Đáng chú ý, quy mô nợ xấu hình thành ròng đã giảm về mức thấp nhất kể từ 1Q22, thời điểm trước khi nợ xấu bắt đầu chu kỳ tăng mạnh trước những ảnh hưởng tiêu cực từ yếu tố vĩ mô và thị trường BĐS. Trong 4Q24, một số ngân hàng đáng chú ý ghi nhận nợ xấu giảm ròng (trước xử lý rủi ro), do nợ xấu nội bảng chuyển về các nhóm nợ tốt hơn, bao gồm CTG, MBB, TCB, TPB, NAB. Chúng tôi cho rằng, xu hướng nợ xấu hình thành ròng giảm được hỗ trợ bởi khả năng trả nợ của các khách hàng đã khả quan hơn trong 4Q24, thể hiện một phần qua số dư lãi, phí phải thu, số ngày phải thu lãi bình quân giảm đáng kể so với quý trước (Hình 13, 14). Chúng tôi cho rằng diễn biến này có thể tiếp tục củng cố cho chất lượng tài sản của ngành ngân hàng trong 2025.
  • Mặc dù nợ xấu mới đã giảm, các ngân hàng duy trì tỷ lệ chi phí tín dụng không thay đổi so với quý trước, giúp tỷ lệ bao phủ nợ xấu cải thiện nhẹ lên 91% từ 83% trong 3Q24 (Hình 12).

Ngành ngân hàng vẫn đang được định giá tương đối thấp

Sau diễn biến KQKD 4Q24 với nhiều gam màu tích cực, chúng tôi vẫn chưa nhận thấy định giá của các ngân hàng niêm yết có diễn biến tái định giá rõ rệt.

Chúng tôi ước tính ngành ngân hàng đang được giao dịch ở mức P.B 1.5 lần, so với bình quân lịch sử 5 năm là 1.7 lần.

Chúng tôi cho rằng mức định giá ngành hiện nay là tương đối hấp dẫn khi xét đến xu hướng cải thiện chất lượng tài sản có nhiều khả năng tiếp diễn, đi kèm với khả năng ROE tăng trở lại khi tăng trưởng lợi nhuận được dự báo tích cực hơn trong 2025, kết hợp với chất xúc tác “nâng hạng thị trường” đối với các cổ phiếu vốn hóa lớn.

Theo VDSC, link gốc

Trả lời