Driehaus nhận ra sự thiếu tin cậy trong những lời khuyên của các chuyên gia tài chính, do đó, cậu quyết định tự học bằng cách nghiền ngấu tất cả các bản tin chứng khoán và tạp chí tài chính có thể tìm thấy ở thư viện địa phương. Chính trong những năm tháng tuổi thơ ấy, Driehaus đã bắt đầu hình thành triết lý đầu tư cơ bản, nền tảng vững chắc cho hướng đi sau này của ông như một nhà phân tích chứng khoán và quản lý danh mục đầu tư.
Sau khi tốt nghiệp đại học, Driehaus tìm kiếm một công việc liên quan đến thị trường và trở thành một nhà phân tích nghiên cứu. Dù yêu thích công việc, ông thường thất vọng khi những khuyến nghị tốt nhất của mình bị đội ngũ bán hàng bỏ qua. Cơ hội quản lý tiền đầu tiên đến với Driehaus vào năm 1970 khi anh làm việc tại phòng giao dịch của A. G. Becker. Driehaus ngạc nhiên nhận ra rằng, các ý tưởng giao dịch của mình còn hiệu quả hơn cả mong đợi. Trong 3 năm làm quản lý tại A. G. Becker, ông được đánh giá nằm trong top 1% những nhà quản lý danh mục đầu tư xuất sắc nhất theo Dịch Vụ Đánh Giá Quỹ (Fund Evaluation Service) của Becker, dịch vụ xếp hạng quỹ lớn nhất thời điểm đó.
Sau khi rời A. G. Becker, Driehaus tiếp tục làm giám đốc nghiên cứu cho Mullaney, Wells and Company, rồi Jessup và Lamount, trước khi thành lập công ty riêng vào năm 1980. Trong 12 năm kể từ năm 1980, Driehaus đạt mức tỷ suất sinh lợi trung bình hằng năm trên 30% (sau khi trừ phí môi giới và quản lý), gần gấp đôi mức sinh lợi trung bình hàng năm 16.7% của S&P 500 trong cùng thời gian.
Tuy nhiên, S&P 500 không phải là thước đo chính xác đối với Driehaus, vì ông tập trung vào cổ phiếu vốn hóa nhỏ. Ngay cả nếu bạn cho rằng thành tích vượt trội của Driehaus là do cổ phiếu vốn hóa nhỏ có lợi thế hơn, thì hãy lưu ý rằng chỉ số Russell 2000, theo dõi hiệu suất của 1,001 đến 3,000 công ty lớn nhất nhì nước Mỹ (nhóm đại diện cho các cổ phiếu trong danh mục đầu tư của Driehaus), chỉ tăng 13.5% mỗi năm (tính theo lãi kép) trong cùng thời gian 12 năm đó. 1 đô la đầu tư vào chỉ số Russell năm 1980 sẽ có giá trị 4.56 đô la vào cuối năm 1991; trong khi 1 đô la đầu tư vào quỹ vốn hóa nhỏ của Driehaus sẽ tăng lên 24.65 đô la trong cùng khung thời gian.
Mặc dù công cụ đầu tư chủ chốt của Driehaus là cổ phiếu vốn hóa nhỏ, ông đã mở rộng phạm vi để bao gồm nhiều loại quỹ khác. Ông đặc biệt yêu thích khái niệm đằng sau Quỹ Hợp tác Bò và Gấu (Bull and Bear Partnership Fund). Quỹ này nhằm loại bỏ tác động của xu hướng chung của thị trường chứng khoán bằng cách cân bằng gần như chính xác các vị thế mua và bán trong dài hạn. Nói cách khác, mức độ nhạy cảm theo hướng thị trường của quỹ luôn gần bằng 0, hiệu suất hoàn toàn phụ thuộc vào việc lựa chọn cổ phiếu riêng lẻ. Trong hai năm đầu hoạt động, năm 1990 và 1991, quỹ này đạt tỷ suất sinh lợi hàng năm lần lượt là 67% và 62% (trước khi trả phí thưởng lợi nhuận 20%), chỉ có 3 trong số 24 tháng bị lỗ (lớn nhất chỉ là 4%).
Trong những năm qua, hoạt động từ thiện đóng vai trò ngày càng quan trọng trong cuộc sống của Driehaus. Năm 1984, ông thành lập Quỹ Richard H. Driehaus với khoản đóng góp 1 triệu đô la bằng cổ phiếu của TCBY (The Country’s Best Yogurt, tên ban đầu là This Can’t Be Yogurt). Ông quản lý quỹ của mình, phân bổ 5% tổng giá trị tài sản ròng hàng năm cho nhiều tổ chức từ thiện khác nhau. Cho đến cuối năm 1991, vốn hóa của quỹ đã tăng lên khoảng 20 triệu đô la.
Mua cổ phiếu tăng trưởng, làm điều đúng đắn chứ không phải làm điều bạn cảm thấy thoái mái
Triết lý cơ bản của Driehaus là giá cả đi theo sự tăng trưởng và chìa khóa dẫn đến thành tích xuất sắc trên thị trường chứng khoán là chọn những công ty có tiềm năng tăng trưởng thu nhập tốt nhất. Mọi thứ khác chỉ là thứ yếu. Điều thú vị là những cổ phiếu tăng trưởng cao đáp ứng tiêu chí của Driehaus thường được giao dịch với tỷ lệ P/E cực cao. Driehaus cho rằng phương pháp thận trọng khi chỉ mua những cổ phiếu có P/E từ trung bình đến dưới trung bình sẽ tự động loại bỏ nhiều cổ phiếu có thành quả tốt nhất. Các cổ phiếu mà Driehaus có xu hướng mua cũng thường là các công ty không được theo dõi hoặc chỉ được các nhà phân tích trong ngành theo dõi nhẹ, một đặc điểm mà Driehaus tin rằng sẽ dẫn đến sự kém hiệu quả hơn và do đó có cơ hội lợi nhuận lớn hơn. Ý tưởng lựa chọn cổ phiếu của Driehaus về cơ bản là dựa trên cơ sở đó. Tuy nhiên, để xác nhận lựa chọn của mình và hỗ trợ xác định thời điểm mua hàng, Driehaus là một người rất tin tưởng vào phân tích kỹ thuật.
Với ngoại lệ hiếm hoi, trước khi mua một cổ phiếu, Driehaus muốn thấy giá của nó tăng lên và sức mạnh tương đối cao (tức là một cổ phiếu đang hoạt động mạnh hơn đáng kể so với thị trường chung). Những đặc tính kỹ thuật này có nghĩa là khi Driehaus mua một cổ phiếu thì nó thường ở gần mức đỉnh cao gần đây. Ông tin rằng vận may được tạo ra bằng cách mua vào những cổ phiếu có hiệu suất cơ bản và kỹ thuật mạnh nhất, chứ không phải bằng cách chọn những món hời.
Hầu hết các nhà đầu tư sẽ thấy khó mua cổ phiếu điển hình trong danh mục đầu tư của Driehaus. Hãy nghĩ về một nhà môi giới áp dụng chiến lược tương tự trong một cuộc chào mời qua điện thoại. “Xin chào, ông Smith. Tôi có một cổ phiếu thực sự thú vị cho ông cân nhắc.” (Tạm dừng) “Tỷ lệ P/E là gì? Chà, tỷ lệ là 60 trên 1.” (Tạm dừng) “Nó cách đáy bao xa? Chà, nó đang tạo ra những đỉnh cao mới. Ông Smith? Xin chào? Ông Smith?”
Phương pháp của Driehaus cung cấp một ví dụ khác về nguyên lý rằng, các chiến lược thành công thường đòi hỏi phải làm những gì mà hầu hết mọi người theo bản năng đều thấy khó chịu. Rất đơn giản, khuynh hướng tự nhiên của hầu hết mọi người hướng tới những phương pháp thoải mái (ví dụ: mua cổ phiếu đang ở gần mức đáy thấp nhất, mua cổ phiếu có P/E thấp) là một trong những lý do đại đa số các nhà đầu tư đều trải qua kết quả tồi tệ như vậy.
Một ví dụ khác cho thấy khả năng làm những việc không thoải mái của Driehaus giúp nâng cao khả năng sinh lời của ông là việc ông sẵn sàng mua cổ phiếu với sức mạnh vượt trội, sau một tin tức rất tích cực. Trong các tình huống đó, hầu hết các nhà đầu tư sẽ chờ giá giảm rồi mới mua, điều không bao giờ xảy ra, hoặc ít nhất họ sẽ đặt lệnh mua giới hạn của họ. Driehaus nhận ra rằng nếu tin tức đủ quan trọng thì cách duy nhất để mua cổ phiếu là phải mua cổ phiếu. Bất kỳ phương pháp thận trọng hơn có thể dẫn đến việc bỏ lỡ sóng tăng giá. Tương tự như vậy, Driehaus cũng sẵn sàng đóng ngay lập tức cổ phiếu đang nắm giữ, ngay cả khi có cú giảm mạnh trong một ngày, nếu anh ta cảm thấy một tin tức tiêu cực đã làm thay đổi triển vọng của cổ phiếu. Quy tắc là: Làm điều đúng, không phải điều bạn cảm thấy thoải mái.
Một điểm quan trọng khác cần nhấn mạnh là chỉ một tỷ lệ nhỏ cổ phiếu chiến thắng lớn đóng góp phần lớn vào thành tích vượt trội của Driehaus. Bạn không cần phải đúng trong phần lớn thời gian, nhưng bạn phải tận dụng những tình huống mà bạn đúng. Đạt được điều này ra lệnh đòi hỏi hai yếu tố thiết yếu: có được vị thế lớn hơn khi mức độ tin cậy cao (ví dụ: cổ phiếu Home Shopping Network (HSN) là vị thế lớn nhất của Driehaus từ trước đến nay), và giữ vị thế đó đủ lâu để khai thác hầu hết tiềm năng. Điều kiện sau có nghĩa là tránh cám dỗ kiếm lợi nhuận ngắn hạn, sau khi cổ phiếu tăng gấp đôi hoặc thậm chí gấp ba, nếu các điều kiện cơ bản và kỹ thuật vẫn cho thấy khả năng tiếp tục giá cao. Tính kiên nhẫn thép để giữ những vị thế như vậy là một trong những thuộc tính giúp phân biệt Phù Thủy Thị Trường với những giao giao dịch non kém. Mặc dù Driehaus và Druckenmiller sử dụng các phương pháp khác nhau đáng kể, nhưng đều có những chiến thắng lớn kiểu cú đánh “home run” là cần thiết cho sự thành công của mỗi người.
Có lẽ lời khuyên cơ bản nhất của Driehaus là để thành công trên thị trường (hoặc bất kỳ thị trường nào), bạn phải phát triển triết lý của riêng mình. Nghiên cứu kỹ lưỡng và kiểm chứng nghiêm ngặt một triết lý giao dịch là điều cần thiết để phát triển sự tự tin nhằm duy trì khả năng vận hành hệ thống trong những thời điểm khó khăn—điều chắc chắn sẽ xảy ra nhiều lần, ngay cả với những hệ thống giao dịch thành công nhất.