[Hồ sơ 2016] TRUNG QUỐC ĐANG HƯỚNG TỚI HỆ THỐNG TIỀN TỆ BẢO ĐẢM BẰNG VÀNG, LẬT NGÔI PETRO-DOLLAR

Trung Quốc đang trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Tuy nhiên, tham vọng của người Trung Quốc không phải là nền kinh tế thứ hai mà là thứ nhất. Hay nói cách khác, Trung Quốc muốn trở thành một đế chế mới thay thế cho người Mỹ.

Để trở thành một đế chế kinh tế, điều này không chỉ được đo lường bằng quy mô GDP, tốc độ tăng trưởng GDP mà điều quan trọng nhất là phải nắm được vị trí yết hầu: TIỀN TỆ.

Giống như đồng Bảng Anh trở thành đồng tiền quốc tế khi Vương Quốc Anh thống trị thế giới trong thời đại chủ nghĩa thực dân; giống như đồng USD của người Mỹ đã thay thế đồng Bảng Anh để trở thành đế chế ở thế kỷ 20 và 21. Đồng NDT của Trung Quốc phải “đánh bại” đồng USD nếu như muốn trở thành Đế Chế, thiết lập nên một trật tự kinh tế mới.

Mặc dù USD và Bảng Anh vẫn có sự đối chọi lẫn nhau nhưng về bản chất, đó vẫn là một liên minh của hệ thống kinh tế Anglo –Saxon. Liên minh Anglo-Saxon muốn loại bỏ vàng ra khỏi vị trí của một đơn vị tiền tệ để dễ dàng thao túng quyền phát hành tiền tệ. Thông qua lạm phát, các banker sẽ tiến hành “ăn cắp” và “phá hủy” mọi nền kinh tế để trục lợi. Trong hệ thống kinh tế Anglo-Saxon, không phải người dân, quốc gia của Anh và Mỹ mà chỉ giới banker mới là người thu lợi.

Trung Quốc hiểu rõ điều này, muốn lật đổ sự thống trị của đồng USD, thì phải khôi phục lại hệ thống tiền tệ bảo đảm vàng. Đây chính là điều mà Trung Quốc đang hướng tới, như một cách thức để thiết lập một đế chế mới. Trên con đường này, Nga đang là người “Bạn Đồng Hành” với cùng chung toan tính và lợi ích.

Muốn thiết lập hệ thống tiền tệ bằng vàng, cả Nga và Trung Quốc phải làm được ba việc sau:

  • Phá vỡ được việc định giá dầu bằng đồng USD. Một là phải cắt đứt mối quan hệ giữa đồng USD vào dầu. Hai là chuyển sang định giá dầu bằng các tiền tệ khác như Rúp, NDT hoặc các dạng tiền tệ khác được đảm bảo bằng vàng.
  • Đảm bảo tiền tệ (NDT và Rúp Nga) bằng vàng. Muốn làm điều này phải tích trữ vàng.
  • Tự do hóa đồng NDT và Rúp Nga. Tức là phải làm thế nào nhằm tăng thị phần sử dụng đồng NDT và Rúp Nga.

Các hành động của Trung Quốc và Nga trong suốt thập niên qua và đặc biệt là trong vài năm trở lại đây đang hướng tới ba công việc trên.

  1. Hệ thống tiền tệ bản vị dầu

Quá trình thay đổi hệ thống tiền tệ là một quá trình lâu dài và phức tạp. Đó là một quá trình xung đột giữa các lợi ích tiền tệ. “Chiến Tranh tiền tệ” là một dạng mâu thuẫn lợi ích trong đó các quốc gia cố gắng phá giá đồng tiền của mình để giành lợi thế xuất khẩu. Tuy nhiên, đó là cuộc đua đến đáy vì điều đó cũng đồng nghĩa các quốc gia sẽ làm cho đồng tiền của mình trở nên mất dần giá trị.

Thế giới trải qua hai cuộc chiến tranh tiền tệ với lần 1 vào năm 1921-1936 và lần 2 vào năm 1967-1987 và đang tham vào một cuộc chiến tranh tiền tệ thứ ba từ năm 2010. James Rickards, một tác giả nổi tiếng viết về chủ đề “Chiến Tranh Tiền Tệ” nói rằng, nó phải được xét trên cơ sở “chiến tranh tài chính (Financial Wars)”. Trong đó, các quốc gia vừa muốn khôi phục các lợi ích kinh tế bằng một đồng nội tệ giá rẻ nhưng lại muốn lật đổ tiền tệ của nhau để nắm vai trò thống trị. Đó là sự phức tạp hiện nay trong chính sách tiền tệ của Trung Quốc và Mỹ với hai mục tiêu có phần mâu thuẫn lẫn nhau.

 Không phải Mỹ mà là Trung Quốc là quốc gia khởi xướng cho thuật ngữ “chiến tranh tài chính” vào năm 1999. Nguồn gốc của học thuyết này là do Trung Quốc nhận thấy cần phải bảo vệ mình trước cuộc khủng hoảng tài chính Đông Á 1997 và Nga 1998.  Quân đội giải phóng Trung QUốc đã đưa ra học thuyết này và thậm chí còn xuất bản thành sách “Unrestricted Warfare- Chiến Tranh không giới hạn”.  Chiến Tranh không giới hạn là nhiều phương án tấn công kẻ thù mà không cần phải dùng đến các vũ khí như tên lửa, bom, đổ quân xâm lược…Mặc dù những vũ khí này có sức hủy diệt lớn về địa lý nhưng cuộc chiến tranh không hạn chế còn bao gồm các cuộc chiến khác: Mở cống xả nước gây thảm họa tự nhiên; tấn công an ninh mạng, gây mất điện… và gần đây là cả tấn công tài chính.

Cuộc chiến tranh tiền tệ lần 3 vì thế không đơn thuần là cuộc đua phá giá tiền tệ mà còn là những âm mưu nhằm lật đổ hệ thống tài chính của nhau. Cụ thể, ở đây là việc Nga và Trung Quốc đang muốn lật đổ vị thế thống trị của đồng USD.

Vị trí thống trị của đồng USD từ năm 1971-72, khi Tổng Thống Nixon phá bỏ bản vị vàng, là dựa trên sức mạnh của dầu. Dầu mỏ là một nguồn năng lượng đặc biệt quan trọng đối với ngành công nghiệp hiện đại. Mọi quốc gia đều phải nhập khẩu dầu để phục vụ nhu cầu công nghiệp. Và để mua được dầu, các quốc gia phải có được USD vì theo thỏa thuận giữa Mỹ và Ả Rập Xê Út, việc thanh toán dầu chỉ được thực hiện bằng đồng USD. Đây được gọi là cơ chế Petrodollar do ngoại trưởng Mỹ- Henry Kissinger thiết lập. Theo đó, dòng USD mà Ả Rập Xê Út có sẽ được sử dụng để quay trở lại mua trái phiếu chính phủ Mỹ, góp phần làm tăng thanh khoản của thị trường trái phiếu chính Phủ Mỹ. Ngày 18.5.2016, một thông tin được tiết lộ sau 4 thập kỷ che dấu, Ả Rập Xê Út hiện nắm đến 117 tỷ USD trái phiếu chính phủ Mỹ, là chủ nợ nước ngoài lớn thứ 13 của Mỹ. Tất nhiên, ngoài Ả  Rập Xê Út, còn có rất nhiều quốc gia khác ở Trung Đông mua Trái Phiếu chính phủ Mỹ từ nguồn thu dầu mỏ.

(http://cafef.vn/mot-trong-nhung-bi-an-lon-nhat-tren-thi-truong-tai-chinh-toan-cau-vua-he-lo-20160518162914288.chn)

Chính vì vậy, nước Mỹ có một đặc quyền rất lớn đó là khả năng phá giá tiền tệ mà không sợ bị các quốc gia khác “tẩy chay”. Vì chừng nào thế giới còn phụ thuộc vào dầu, họ còn phải cần đến đồng USD để mua dầu.

Đây là một nút thắt rất quan trọng. Đó là lý do tại sao cả Nga và Trung Quốc đang có nhũng toan tính riêng. Nga muốn thâm nhập sâu vào khu vực Trung Đông từ Syria, Iraq, Iran….để dần loại bỏ ảnh hưởng của Mỹ. Đây là một quá trình mang tính vũ lực và dẫn tới xung đột quân sự. Năm 2014-2015, chúng ta chứng kiến cuộc khủng hoảng quân sự ở Crimea (Ukreina) và Syria. Trong khi đó, Trung Quốc lại liên tục quân sự hóa ở Biển Đông với học thuyết Đường Lười Bò.

 

Nước Nga đang “gật đầu” để cho Trung Quốc thống lĩnh ở Biển Đông và chiếm lấy nguồn dầu mỏ ở khu vực này. Nga muốn các tranh chấp ở Biên Đông là câu chuyện giữa Trung Quốc với những nước làng giếng như Việt Nam, Philipin mà không có sự can thiệp của Mỹ hay Nhật Bản.

Xem thêm: http://thanhnien.vn/the-gioi/chuyen-gia-nga-tai-sao-nga-lai-len-tieng-ve-van-de-bien-dong-693091.html

Nếu như Trung Quốc có được nguồn dầu mỏ ở đây, Trung Quốc sẽ có tiếng nói lớn hơn trong rất nhiều vấn đề. Đó là khả năng sẽ thay đổi việc tính giá dầu dựa trên đồng NDT hoặc Rúp (Nga).

  1. VÀNG: CUỘC CHƠI LỚN CỦA CÁC NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG

 Mặc dù giá vàng đã giảm rất mạnh từ đỉnh 1,923 USD vào tháng 9.2011, nhưng diễn biến giá vàng trên sàn Luân Đôn và New York không phản ánh đúng thực chất cung-cầu trên thị trường vàng.

Các ngân hàng trung ương trên thế giới đang tham gia vào một cuộc chiến giành giựt vàng rất khốc liệt. Sự tụt dốc của giá vàng không phản ánh đúng nhu cầu thực sự của vàng vì nó không diễn ra trên sàn giao dịch mà là cuộc thu gom trực tiếp tại các mỏ vàng.

Mặc dù các nhà kinh tế và các chuyên gia vẫn tranh luận với nhau về vai trò của vàng (hàng hóa đơn thuần hay là một hệ thống tiền tệ), các ngân hàng trung ương lại gạt bỏ tranh luận sang một bên: mua vàng vì vàng là tiền. Ông trùm tài phiệt J.P.Morgan, một trong những người đứng đằng sau việc tạo lập Cục Dự Trữ Liên Bang Mỹ nói: “Tiền là vàng, và không thể là cái gì khác?”

Thực tế, từ năm 2002-2009, số lượng vàng bán ra của các ngân hàng trung ương giảm từ 500 tấn vào năm 2002 xuống còn 50 tấn vào năm 2009. Bắt đầu từ năm 2010, các ngân hàng trung ương bắt đầu mua ròng. Với lượng mua ròng gần 100 tấn vào năm 2002 tăng lên hơn 500 tấn vào vào năm 2012. Do đó, trong 10 năm từ 2002-2012, các ngân hàng trung ương chuyển sang mua ròng hơn 1,000 tấn/năm, lớn hơn 1/3 lượng cung vàng hàng năm của thế giới. Thậm chí, vàng sau khi khai thác tại các mỏ được chuyển thẳng trực tiếp tới các hầm dự trữ vàng của các ngân hàng trung ương.

Bảng 1: Các quốc gia mua gom vàng nhiều nhất trên thế giới trong 10 năm qua.

 

Bảng 1 cho thấy tất cả các ngân hàng trung ương mua vàng lớn nhất là ở Châu Á, Mỹ La Tinh và Đông Âu. Từ năm 2004-2013, các ngân hàng trung ương Tây Âu là người bán ròng mặc dù lượng vàng bán ra ngừng đột ngột vào năm 2009. Kể từ đó các nền kinh tế mới nổi đã mua vàng từ các nhà khai thác vàng hoặc từ thị trường mở, bao gồm 400 tấn vàng được bán bởi IMF vào năm 2009 và đầu năm 2010. Nếu chỉ tính các NHTW, loại từ IMF, lượng mua ròng trong dự trữ vàng chính thức được công bố tăng thêm 1,481 tấn, tăng 5.4% từ quý 4.2009 đến quý 1.2013. Các ngân hàng trung ương đang trở thành người mua lớn trên thị trường vàng. Vàng có xu hướng di chuyển từ Tây sang Đông, đặc biệt là Trung Quốc như một con nghiện khát vàng. Trung Quốc với khát vọng muốn thay đổi vị trí thống trị của đồng USD đã thu gom vàng.

Tuy nhiên, cần lưu ý là thống kê ở bảng 1 chưa xem xét tỉ mỉ về Trung Quốc. Trung Quốc nói rằng dự trữ vàng của họ tăng 395 tấn từ năm 1980-2001 và dự trữ vàng đạt mức 500 tấn vào năm 2001. Sau đó, năm 2002 là 600 tấn và giữ nguyên đến năm 2008. Vào năm 2009, Trung Quốc công bố con số 1,054 tấn vàng và duy trì con số này đến đầu năm 2014.

Nhưng số liệu thực tế có thể là lớn hơn rất nhiều. Theo James Rickard, Trung Quốc đã có thể mua thêm vào khoảng 4,500 tấn vàng so với số liệu được công bố năm 2009. Con số này dựa trên số lượng vàng mà Trung Quốc mua trực tiếp từ các mỏ vàng ở Nam Phi và Tây Úc để không ảnh hưởng đến giá vàng trên thị trường. Ngoài ra, là số vàng thu mua tại các mỏ vàng ở Trung Quốc và được gửi đi lọc thành vàng thỏi ở Úc, Nam Phi và Thụy Sĩ, sau đó được chuyển trở lại hầm vàng ở Thượng Hải. Việc Trung Quốc mua trên thị trường chủ yếu là từ các đại diện của HSBC Hồng Kong và ANZ Bank Thượng Hải. Việc thanh toán được thực hiên qua các quỹ sovereign wealth fund, Ủy ban quản lý quốc gia về dự trự ngoại hối (State Administration for Foreign Exchange) và được quản lý bởi nhà giao dịch trái phiếu PIMCO là Zhu Changhong. Vàng sau khi mua xong chuyển về hầm vàng Thượng Hải bằng đường hàng không. Ước tính Trung Quốc mua 600 tấn trực tiếp từ Perth Mint của Úc và các người bán khác tại mức giá 1,200 USD/oz trong thời gian từ tháng 4 đến tháng 7.2013.

Ông thận trọng ước tính khoảng ½ nửa con số ước lượng, tức khoảng 2,250 tấn. Như vậy, dự trữ vàng của Trung Quốc có thể là 3,300 tấn vàng vào đầu năm 2014. Rickards ước tính, Trung Quốc có thể mua thêm 700 tấn vàng trong năm 2014 và dự trữ vàng có thể lên mức 4,000 tấn vàng vào đầu năm 2015. Điều này có nghĩa, dự trữ vàng của Trung Quốc có thể đã vượt qua Pháp, Italia, Đức và cả IMF và trở thành quốc gia nắm giữ vàng lớn thứ hai, sau Mỹ.  Theo một số nguồn tin không chính thức từ trang mạng Zerohedge, một trang blogger, dự trữ vàng của Trung Quốc có thể đã lên tới 6,000 tấn.

Nga cũng nỗ lực mua vàng. Trong 9 năm từ 2004-2013, dự trữ vàng cũng tăng 250% từ 390 tấn lên hơn 1,000 tấn. Không giống như Trung Quốc, sự gia tăng này  gần như các nhà khai thác vàng nội địa và không dựa vào nhập khẩu. Nga là nước sản xuất vàng lớn thứ 4 thế giới, với sản lượng khoảng 200 tấn/năm. Ước tính, dự trữ vàng của Nga là hơn 1,100 tấn vào năm 2014, hơn 1/8 quy mô dự trữ vàng cua Mỹ.

Một chi tiết cần lưu ý. Ngay cả khi cuộc khủng hoảng dầu mỏ đang tàn phá kinh tế Nga, nước Nga vẫn tăng cường tích trữ vàng. Số liệu cho thấy đến tháng 10.2015, Nga có trữ lượng vàng 1,200 tấn. Để làm điều này, Nga bán Trái Phiếu Chính Phủ Mỹ để chuyển sang vàng. Nga cũng công bố tiền Rúp Nga được bảo đảm bằng vàng.

Ngoài việc các quốc gia tăng dự trữ vàng, những quốc gia khác cũng đang tăng cường thu về lượng dự trữ vàng của mình. Ngoại trừ Mỹ, khoảng một nữa dự trữ vàng trên thế giới không được dự trữ tại quốc gia sở hữu mà được cất giữ tại Fed New York và BOE Luân Đôn. Hầm dự trữ vàng của Fed khoảng 6,400 tấn và BOE là 4,500 tấn. Ước tính Fed và BOE cất giữ giùm cho Đức, Nhật Bản, Hà Lan, IMF và các quốc gia khác khoảng 10,600 tấn.

Việc tập trung vàng tại New York và Luân Đôn là kết quả của bản vị vàng từ năm 1870-1971. Thay vì vàng được di chuyển giữa các quốc gia, vàng được tập trung tại New York và Luân Đông để làm phương tiện thanh toán. Trong giai đoạn chiến tranh lạnh từ 1946-1991, vàng ở Đức di chuyển qua Mỹ để tránh nguy cơ bị Liên Xô tấn công.

Ngày nay, Venezuela là yêu cầu BOE hoàn trả lại 99 tấn vàng vào tháng 8.2011. Đức, quốc gia dự trữ 3,391 tấn vàng, lớn thứ hai thế giới nhưng hiên đang gửi tại Mỹ cũng đang yêu cầu rút vàng về nước. Đức lên kế hoạch để Frankfurt phải nắm giữ 50% trữ lượng vàng của minh, New York chỉ giữ lại 37% và Luân Đôn là 13%.

Tại Thụy Sĩ, vào năm 2011, quốc hội phê duyệt 100% dự trữ vàng của mình phải được cất giữ tại Thụy Sĩ.

Rõ ràng, các ngân hàng trung ương đang hiểu rõ điều gì sẽ diễn ra đối với cuộc chiến tranh tiền tệ lần 3: Đó là một hệ thống tiền tệ bản vị vàng mới có khả năng ra đời. Cuộc chiến tranh tiền tệ lần 3 có thể không được kết thúc bằng những hiệp định ngừng phá giá như hai cuộc chiến trước mà bằng con đường duy nhất: cải tổ lại hệ thống tiền tệ toàn cầu. Cuộc chiến tranh tiền tệ lần 3 phải được giải quyết triệt di sản của hai cuộc chiến tranh tiền tệ trước để lại. Các nhà chiêm tinh học dự báo, có thể đến những năm 2020, hệ thống tiền tệ toàn cầu sẽ được sắp xếp lại.

James Rickards cho rằng, hệ thống bản vị vàng mới có thiết kế khả thi và hiệu quả hơn tùy thuộc vào việc thiết kế như thế nào và điều kiện nào khi được tung ra. Hệ thống bản vị vàng cổ điển, từ 1870-1914, đã thành công lớn với việc tạo ra một giai đoạn ổn định giá cả, tăng trưởng thực cao và các phát minh lớn. Ngược lại, hệ thống bản vị vàng-tỷ giá từ 1922 đến 1939 bị thất bại và tạo ra Đại Suy Thoái.

Thực chất, hệ thống bản vị vàng-tỷ giá từ năm 1929-1939 được xây dựng giả tạo nhằm mục đích xóa bỏ bản vị vàng của các ngân hàng trung ương như FED và BOE. Sau thế chiến thứ nhất, mặc dù kinh tế Mỹ tăng trưởng mạnh mẽ trong khi nước Anh chìm vào trạng thái trì trệ. Lạm phát của Mỹ do đó cao hơn hẳn so với Anh tuy nhiên BOE lại duy trì mức lãi suất cao hơn so với FED với mục tiêu khôi phục lại bản vị vàng. Kết quả là vàng đổ vào Anh, khiến cho đồng Bảng Anh tăng giá, và nền kinh tế Anh sụp đổ. Trong khi đó, nước Mỹ lại xuất hiện tình trạng bong bóng tài chính dẫn đến cuộc sụp đổ chứng khoán vào năm 1929. Nếu hoạt động theo hệ thống bản vị vàng cổ điển trước đây 1870-1914, BOE phải hạ lãi suất thấp hơn so với FED. Chính sự can thiệp tùy tiện trong chính sách lãi suất của các ngân hàng trung ương để sau đó Keynes quy kết rằng: “vàng là di tích dã man”.

Hệ lụy của chế độ tiền giấy danh nghĩa không còn neo vào vàng là hai cuộc chiến tranh tiền tệ diễn ra sau đó. Trong đó, cuộc chiến tranh tiền tệ lần thứ nhất đã tạo ra thế chiến thứ hai (1939-1945) còn cuộc chiến tranh tiền tệ lần thứ hai thì lại góp phần tạo ra một bong bóng tài chính to hơn.

Tương lai của hệ thống bản vị vàng mới đang là tranh cãi của giới phân tích với hàng loạt vấn đề: Đồng tiền dự trữ toàn cầu là gì: Đồng USD hay là một đơn vị tiền tệ toàn cầu khác? Tỵ lệ dự trữ vàng của đồng tiền mới là bao nhiêu? Các xác định tỷ giá giữa các đồng tiền tệ? Sau đây là một mô phỏng giả định về hệ thống bản vị vàng tương lai của James Rickard.

Hiện tại, đồng SDR (quyền rút vốn đặc biệt) của IMF được cho là ứng cử viên cho đơn vị toàn cầu mới. Nhưng đây không phải là SDR cũ mà là một SDR mới là một đồng tiền được bảo đảm bằng vàng và tự do chuyển đồi thành vàng hoặc một đồng nội tệ của bất cứ thành viên nào của hệ thống.

Hệ thống này có thể gồm hai lớp. Lớp đầu tiên có thể là SDR, được định nghĩa bằng tỷ trọng cụ thể trong vàng. Lớp thứ hai gồm các tiền tệ riêng lẽ của mỗi quốc gia thành viên, chẳng hạn như USD, Eur, Yen hoặc đồng Bảng Anh. Mỗi đơn vị tiền tệ có thể được định nghĩa như một số lượng cụ thể của SDR. Vì đồng nội tệ được định nghĩa trong SDR và SDR được định nghĩa bằng vàng, bằng cách mở rộng mỗi đồng nội tệ sẽ có một giá trị cụ thể của vàng.

Vì mỗi đồng nội tệ được định nghĩa bằng SDR, và SDR được định nghĩa bằng vàng, nên mỗi đồng nội tệ cũng có giá trị của một lượng vàng cụ thể. Cuối cùng, vì mỗi đồng nội tệ có mối quan hệ với đồng SDR và vàng, mỗi đồng nội tệ có thể sẽ có mối quan hệ cố định với các đồng tiền khác. Ví dụ, 1 Euro = 1 SDR. 1.5 USD =1 SDR thì 1 Euro=1.5 USD.

Để tham gia vào hệ thống SDR vàng mới, các quốc gia thành viên phải có một tài khoản thanh toán, nghĩa là đồng nội tệ của họ có thể tự do chuyển đổi thành SDR, vàng, hoặc tiền tệ của các quốc gia thành viên khác. Đây không phải là vấn đề lớn đối với Mỹ, Nhật Bản, Eurozone và các thành viên khác hiện đã có tài khoản vãng lai mở (open captial account), nhưng nó có thể trở ngại với Trung Quốc, vốn chưa có tài khoản. Đây là lý do tại sao Trung Quốc từ năm 2014 đã có tham vọng bước vào danh mục SDR.

Các thành viên được khuyến khích chấp nhận đồng SDR bảo đảm bằng vàng mới như là một đơn vị thanh toán trong khả năng lớn nhất có thể. Các thị trường toàn cầu như dầu mỏ và các nguồn tài nguyên khác có thể chuyển sang định giá bằng SDR hơn là USD. Các doanh nghiệp đa quốc gia lớn trên thế giới như IBM hoặc Exxon, có thể vẫn tiếp tục được nắm giữ SDR, và nhiều thước đo kinh tế như sản lượng toàn cầu, cán cân thanh toán, có thể được tính toán và đo lường theo đồng SDR. Cuối cùng, thị trường trái phiếu định danh bằng đồng SDR phát triển, với sự tham gia của cấc quốc gia nước ngoài, các công ty đa quốc gia, các ngân hàng đia phương và được mua lại bởi các sovereign wealthy fund và các quỹ hưu trí. Thị trường trái phiếu có trung gian là các ngân hàng toàn cầu quy mô lớn, chẳng hạn như Goldman Sachs, dưới sự giám sát của IMF. IMF lúc này trở thành một ngân hàng trung ương toàn cầu.

Ban đầu, hệ thống mới có thể hoạt động không có sự mở rộng của cung tiền trên toàn cầu. Bất cứ quốc gia nào muốn có SDR và các đồng nội tệ khác. IMF chỉ thực hiện nới lỏng tiền tệ trong những trường hợp ngoại lệ và được sự chấp nhận của đa số thành viên trong các thành viên tham gia IMF trong hệ thống bản vị vàng mới.

Dựa trên việc hạn chế phát hành các đồng SDR mới, hệ thống sẽ tung ra một SDR như là một mốc neo và là một đơn vị thanh toán nhưng chỉ tồn tại một số lượng nhỏ các SDR. Cung tiền tệ cơ sở toàn cầu của các thành viên sẽ tạo nên tổng cung tiền toàn cầu, giống như ngày hôm nay, và tổng cung tiền này là điểm tham chiếu để xác định mức giá vàng hợp lý.

Đó là lý do tại sao Trung Quốc đang hướng dần đến việc tự do hóa đồng NDT và phải tham gia vào rổ SDR. Trung Quốc muốn có một ảnh hưởng lớn khi quá trình hệ thống tiền tệ được đảm bảo bằng vàng xuất hiện.

  1. Các động thái mới nhất của Nga và Trung Quốc năm 2015 cho thấy Trung Quốc đang hướng tới tự do hóa đồng NDT, và thay đổi cách thức định giá dầu.

Sau khi hiểu được toan tính của Trung Quốc và Nga trong việc muốn phá bỏ việc niêm yết dầu bằng đồng USD và hướng tới thiết lập hệ thống tiền tệ đảm bảo bằng vàng, một công việc quan trọng mà Nga và Trung Quốc hiện nay đang làm là tự do hóa hơn nữa đồng tiền Rúp và NDT. Muốn như vậy, cả Trung Quốc và Nga đang thiết lập các khu vực thương mại, hệ thống ngân hàng, giao dịch thương mại bằng đồng NDT và Rúp. Các biện pháp cụ thể trong 3 năm qua như sau:

  • Các quốc gia BRICS cho ra đời hệ thống ngân hàng New Development Band (NDB) vào tháng 7.2014.
  • Trung Quốc và Nga tăng cường thương mại giữa hai nước bằng NDT và Rúp.
  • Tháng 3.2015, thiết lập hợp đồng tương lai giữa NDT-Rúp giao dịch tại Mát cơ va. Tốc độ vòng quay đồng NDT tăng 700% tại sàn giao dịch trong năm 2014 lên mức 48 tỷ NDT.
  • Kế hoạch thảo luận: Giao dịch dầu mỏ giữa Trung Quốc và Nga có thể là bằng Rúp hoặc đồng tiền khác dựa trên đảm bảo bằng vàng. Lưu ý quan trọng (có ảnh hưởng đến Việt Nam). Trung Quốc đang bàn tính đến một kế hoạch còn to lớn hơn, đó là định giá dầu bằng chuẩn NDT. Muốn có điều này, Trung Quốc phải có dầu với trữ lượng lớn. Biển Đông là khu vực được ước tính có trữ lượng dầu lớn, được ví như Vùng Vịnh thứ hai (xem số liệu chi tiết trong bài về Nợ CÔng). Do đó, Trung Quốc đang rất muốn có “BIỂN ĐÔNG”.
  • Hoán Đổi tiền tệ Nga-Trung lên tới 25 tỷ USD (tháng 10.2015)
  • Tháng 3.2015, Nga tham giao vào hệ thống ngân hàng Asian Infrastructure Bank của Trung Quốc (Đối chọi với IMF).
  • Năm 2015, Giao dịch thương mại giữa nhóm nước CIS (là khu vực thương mại giữa các nước thuộc Liên Xô cũ) sẽ bằng đồng Rúp.

 –  Khuyến khích các quốc gia Trung Đông không bán dầu bằng đồng USD. Điều này có thể được thực hiện bằng còn được áp lực chính trị và can thiệp xung đột vũ trang. Chẳng hạn Nga chiếm Crimea (Ukreina) và tham gia không kích ở Syria.

– Tháng 8.2015, Trung Quốc tuyên bố tiền tệ được bảo đảm bằng vàng. Để làm điều này, Trung Quốc đang tích cực thu gom vàng (như giải thích ở trên)

Tháng 12.2015, Đồng NDT được đưa vào rỗ tiền tệ SDR của IMF.

Lưu ý với Việt Nam: Trung Quốc đang đề xuất thanh toán trực tiếp đồng NDT tại lãnh thổ Việt Nam. Trung Quốc đang lợi dụng tình hình khó khăn của các quốc gia để đẩy mạnh việc sử dụng bằng đồng NDT. Ví dụ như năm 2015, Trung Quốc đã xóa nợ cho Zimbabwe, để sử dụng NDT làm đồng tiền của quốc gia này. Nếu như điều này diễn ra, Trung Quốc sẽ giống như Fed hiện nay chi phối đến nền kinh tế của các quốc gia khác.

  1. Các động thái mới nhất của Trung Quốc trong năm 2016 trong việc thúc đẩy ảnh hưởng lên thị trường vàng.
  • Ngày 19.4.2016: Trung Quốc tung ra chuẩn mực giá vàng mới để có ảnh hưởng lớn hơn trên thị trường hàng hóa. Theo đó, giá vàng sẽ được định danh bằng đồng NDT, niêm yết tại sàn giao dịch vàng Thượng Hải. Giá vàng sẽ được thiết lập dựa trên 18 đơn vị tham gia trên thị trường vàng Thượng Hải và được chốt giá 2 lần mỗi ngày (so với Sàn Giao Dịch Vàng Luân Đôn có 12 đơn vị). Trong số 18 đơn vị này sẽ bao gồm Bank of China và ICBC là những ngân hàng lớn của Trung Quốc (cũng như 2 ngân hàng khác trong nhóm Big 4 của Trung Quốc), ngoài ra còn có cả các ngân hàng nước ngoài như Standard Chartered và ANZ.

Vào ngày 19.4.2016, giá vàng tham chiếu là 256.92 NDT cho mỗi gram vàng (khoảng 1,234.50/ounce nếu tính sang đơn vị của Luân Đôn). Đơn vị đo lường vàng ở Thượng Hải sẽ là 1 kg cho mỗi hợp đồng thay vì đo lường bằng Ounce của Luân Đôn và New York.

Mục tiêu của chuẩn vàng mới của Trung Quốc là  nhằm làm giảm ảnh hưởng của giá vàng Luân Đôn. Giá vàng đã giao dịch tại Luân Đôn trong 300 năm qua. Năm 2015, trị giá vàng giao dịch trên thị trường Luân Đôn lên tới 5,000 tỷ USD.

  • Ngày 17.5.2016: Các hãng BBC, Bloomberg đăng tin: ICBC Standard Bank của Trung Quốc mua hầm vàng lớn nhất thế giới từ Barclays. Theo Reuters, chi phí mua khoảng 90 tỷ USD. Thương vụ được dự kiến hoàn tất vào tháng 7.2016. Hầm vàng này nằm ở một vị trí “bí mật” và có khả năng chứa 2,000 tấn. Hầm vàng này mới chỉ hoạt động vào năm 2012.

Mục tiêu của ICBC là trở thành ngân hàng lớn nhất của người Trung Quốc trên thị trường vàng.

  • Theo Hội Đồng Vàng Thế Giới (World Gold Council), các ETF được đảm bảo bằng vàng ở Trung Quốc thu hút được một dòng vốn ngày càng lớn bất thường trong vài tháng gần đâu.
  • Trước khi đi vào bình luận, tôi lưu ý một nội dung quan trọng trong quá trình theo dõi giao dịch của thị trường vàng thế giới. Ảnh hưởng của những giao dịch trên thị trường vàng Thượng Hải đang có dấu hiệu sức ảnh hưởng ngày càng tăng trên giao dịch vàng thế giới từ năm 2015.

 Đây là những chuyển biến cho thấy sự ảnh hưởng của người Trung Quốc đến diễn biến giá vàng. Thông thường, giá vàng sẽ biến động mạnh nhất vào thời điểm thị trường tài chính Châu Âu và Mỹ mở cửa khi giá vàng được giao dịch trên sàn Luân Đôn và New York (tương ứng Trung Quốc đang vào buổi đêm). Tuy nhiên, trong năm 2015, không ít lần giá vàng có những biến động đột ngột ngay trong giờ Châu Á mở cửa (tức sàn giao dịch vàng Thượng Hải đang hoạt động).

– Ví dụ phiên sáng ngày 20.7.2015, giá vàng bất ngờ giảm mạnh 4% về dưới 1,100 USD/oz khi 5 tấn vàng được bán ra trong 2 phút từ 9:29-9:30 sáng tại Thượng Hải. (Xem thêm : http://www.giavang.net/nguyen-nhan-gia-vang-giam-manh-sang-nay-la-do-luc-ban-ra-tu-thi-truong-thuong-hai/)

 Ví dụ sáng ngày 19.4.2016, giá Bạc bất ngờ tăng mạnh khi có lực lua lớn trên thị trường Thượng Hải (theo Ronald Leung, Trưởng bộ phận kinh doanh kim loại của Lee Cheong Gold ở Hồng Kong).

  1. Bình luận về các động thái mới nhất năm 2016

Các động thái của Trung Quốc trong thời gian qua cho thấy một mục tiêu nhất quán và rõ ràng: Hướng đến một hệ thống tiền tệ mới được đảm bảo bằng vàng. Tất nhiên, Trung Quốc sẽ cần rất nhiều thời gian để hoàn thành được mục tiêu trên.

Trong ngắn hạn, Trung Quốc đang hướng tới một trục đa cực trong diễn biến giá vàng gồm ba thị trường giao dịch chính là: Luân Đôn, New York và Thượng Hải. (Mặc dù tham vọng của Trung Quốc là đánh bại cả Luân Đôn và New York). Đó là lý do tại sao Trung Quốc tăng cường mua vàng và thiết lập lại chuẩn vàng mới theo kiểu Trung Quốc.

Bên cạnh việc thúc đẩy ảnh hưởng của sàn giao dịch vàng Thượng Hải, Việc Trung Quốc mua hầm vàng ở Luân Đôn có vẻ như cho thấy Trung Quốc cũng muốn can thiệp trực tiếp vào vào cơ chế định giá vàng ở Luân Đôn. Việc có hầm vàng sẽ giúp Trung Quốc huy động vàng vật chất từ khu vực Luân Đôn và cất trữ ngay tại đó, và sử dụng nó để giao dịch tác động đến giá vàng tại Luân Đôn. Có một số mục tiêu của Trung Quốc đằng sau động thái này:

– Hầm vàng là rất quan trọng trong giao dịch kim loại quý vì vàng có rất ít ngành công nghiệp sử dụng (khác với bạc được nhiều ngành công nghiệp sử dụng hơn) và vàng chủ yếu là để cất trữ giá trị. Vàng chủ yếu được cất trong hầm, còn các nhà đầu tư sẽ mua bán trên sàn dựa trên số lượng vàng được cất trữ. Các quỹ ETF được bảo đảm bằng vàng vật chất đang có xu hướng bùng nổ trong thời gian gần đây. Việc được có được hầm vàng lớn giúp Trung Quốc thu hút các quỹ ETF bảo đảm bằng vàng đến cất vàng từ đó vừa  (1) có nguồn thu phí vừa (2) có thể thuận tiện để thiết lập giao dịch với các quỹ ETF vàng. Thông qua các quỹ ETF vàng, Trung Quốc có thể tiếp cận mua vàng vật chất dễ dàng hơn. Số vàng này có thể cất trữ tại Luân Đôn nhằm tác động đến giá vàng của Luân Đôn.

– Cần lưu ý là cả ba ngân hàng lớn của Trung Quốc là ICBC (là ngân hàng lớn nhất thế giới với tổng tài sản hơn 3,000 tỷ USD), Bank of China và China Construction Bank từ năm 2015 đã là thành viên của sàn giao dịch vàng Luân Đôn và có vai trò trong việc quyết định xác định giá vàng niêm yết trên sàn Luân Đôn. Trong đó ICBC được xem là con át chủ bài của Trung Quốc. Ngân hàng này là người giao dịch vàng lớn nhất của Trung QUốc (Trung Quốc là người tiêu thụ đến 40% lượng vàng hàng năm). ICBC cũng là một trong những người giao dịch vàng lớn nhất tại một số sàn vàng khác nhỏ hơn như  SGE của Hong Kong. ICBC Standard Bank là thành viên của hệ thống thanh toán của sàn vàng Luân Đôn từ năm 2005 (nghĩa là cung cấp các công cụ giao dịch và tín dụng, thực hiện thanh toán cho các nhà giao dịch vàng). Điều này cho thấy Trung Quốc đang có một tham vọng trong việc ảnh hưởng đến giá vàng trên quy mô toàn cầu. Thông qua ICBC, Trung Quốc có thể ảnh hưởng đến giá vàng trên nhiều thị trường từ Luân Đôn cho đến Hồng Kong, và Thượng Hải. Trung Quốc có thể sử dụng giao dịch vàng của mình trên nhiều thị trường để tác động đến giá vàng theo ý muốn.

Tôi cho rằng, đi kèm với các biện pháp thúc đẩy mua vàng vật chất, định giá lại chuẩn vàng, Trung Quốc sẽ đẩy mạnh hơn việc tự do hóa đồng NDT.  Khả năng sắp tới Trung Quốc sẽ cho thống nhất thị trường ngoại hôi CNH (offshore, là đồng NDT giao dịch ở nước ngoài) và đồng CNY (Đồng NDT giao dịch nội địa). Việc này nhằm giúp đồng NDT sẽ trở nên có tính chuyển đổi cao hơn và thuận hiện hơn cho Trung Quốc trong việc nhập khẩu Vàng.(Theo bình luận của ông Shakarrchi, chủ tịch của MKS, giao giao dịch của Thụy Sĩ).

Trương Minh Huy

Tài liệu tham khảo

  1. “The Death of Money- The coming collapse of the international monetary system”, James Rickards, 2014.
  2. http://www.businessinsider.com/china-icbc-buys-secret-gold-vault-london-2016-5
  3. http://www.zerohedge.com/news/2016-04-19/china-launches-yuan-gold-fix-exert-more-control-over-price-gold.
  4. http://www.wsj.com/articles/chinese-bank-to-buy-giant-london-gold-vault-1463408198

http://www.ft.com/cms/s/0/12b82156-1cfa-11e6-a7bc-ee846770ec15.html#axzz497dkUbxW

Trả lời